(2023) Đề thi thử Ngữ Văn THPT Hoàng Diệu , Quảng Nam (Lần 1) có đáp án
(2023) Đề thi thử Ngữ Văn THPT Hoàng Diệu , Quảng Nam (Lần 1) có đáp án
-
777 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
120 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
BÃO
thế là em đã nói điều ấy trước giờ bão đến
trời Sài Gòn u u mắt nâu
anh đi vào mơ
vào thực
vào buổi chiều chẳng có ai để nhớ
mưa bủa vây bốn phía
mưa như nước mắt đàn ông
rơi lì lợm...
anh ngồi với anh mân mê từng hạt nước
ngoài Trung nhiều tin chẳng lành
đời chi lạ !
bão cũng xé thành hai cõi
bão của đời mải mê tàn phá
bão lòng anh tan nát đời anh
bão lòng anh chỉ mình anh chịu
bão của đời xin hãy lặng yên !...
(Nguyễn Trung Bình, Người trẻ dáng nâu, NXB Lao động, 2011, tr.95)
Phương pháp: Vận dụng kiến thức đã học về các thể thơ đã học.
Cách giải:
Thể thơ của văn bản : tự do.
Câu 2:
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức đã học về từ địa phương.
Cách giải:
Câu thơ thể hiện rõ phương ngữ của người miền Trung: đời chi lạ!
Câu 3:
Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong đoạn thơ:
anh đi vào mơ
vào thực
vào buổi chiều chẳng có ai để nhớ
mưa bủa vây bốn phía
mưa như nước mắt đàn ông
rơi lì lợm...
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong đoạn thơ:
- Làm nổi bật sự lì lợm, dai dẳng của cơn mưa chiều ở Sài Gòn đồng thời thể hiện nỗi buồn, sự trăn trở của tác giả trước cơn bão lòng, bão đời.
- Làm cho đoạn thơ giàu hình ảnh, tăng tính biểu cảm.
Câu 4:
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Nhận xét những suy ngẫm của tác giả về bão được thể hiện trong văn bản:
- Những suy ngẫm của tác giả: bão cũng xé thành hai cõi: bão lòng và bão đời. Bão lòng làm tan nát đời anh, bão đời cứ mải mê tàn phá nên anh xin nó hãy lặng yên, còn bão lòng anh để mình anh chịu..
- Nhận xét những suy ngẫm của tác giả: suy ngẫm sâu sắc, đầy nhân văn, cao thượng.
Câu 5:
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải biết vượt qua những cơn bão lòng.
Phương pháp: Vận dụng kiến thức đã học về cách làm một đoạn nghị luận xã hội.
Cách giải:
* Xác định vấn đề nghị luận: Sự cần thiết phải biết vượt qua những cơn bão lòng.
- Giải thích : bão lòng là những nỗi buồn đau, những khó khăn khó giải quyết khiến người gặp phải băn khoăn, trăn trở trong lòng.
- Bàn luận vấn đề:
+ Sự cần thiết phải học cách vượt qua những cơn bão lòng:
• Cuộc đời không phải lúc nào cũng bằng phẳng, bình yên như ý muốn nên con người không thể mãi đắm chìm trong cơn bão lòng, hay đầu hàng, bỏ cuộc, mà phải biết đứng lên để tìm cách vượt qua nó.
• Vượt qua những cơn bão lòng sẽ khẳng định sự mạnh mẽ trong thế giới tâm hồn con người, sẽ hình thành được những phẩm chất tốt đẹp như niềm tin, nghị lực, sự kiên trì, dũng cảm… Từ đó, giúp con người trưởng thành hơn và có cơ hội thành công hơn, có thể đóng góp sức mình nhiều hơn cho cộng đồng và xã hội.
+ Phê phán những người yếu đuối, mãi đắm chìm trong những cơn bão lòng mà không tìm cách vượt qua.
- Bài học:
+ Con người cần phải nhận thức được rằng: dám vượt qua những cơn bão lòng thì mới có thể tồn tại, mạnh mẽ, trưởng thành và hướng tới thành công.
+ Cần tôi rèn ý chí, nghị lực; cần lạc quan và dũng cảm đối mặt với những cơn bão lòng và tìm cách vượt qua nó, không được suy nghĩ tiêu cực.
Câu 6:
… Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc loà sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào tự động lái được lượn được. Thế là hết thác.
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam) Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
3
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.
Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
I. Giới thiệu chung
- Nguyễn Tuân là một cây bút tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên bác, các tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
- Người lái đò Sông Đà được trích từ tập Tùy bút Sông Đà là kết quả của chuyến đi thực tế Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc. Tại đây, ông đã cảm nhận được thiên nhiên vừa dữ dội vừa trữ tình cùng với chất vàng mười trong tâm hồn người dân nơi đây.
- Khái quát vấn đề: Trình bày cảm nhận của anh/chị về đoạn trích. Từ đó, nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
II. Phân tích
1. Cảm nhận đoạn trích
* Nội dung: Đoạn trích tái hiện cảnh ông đò chiến đấu với Sông Đà hung bạo, vượt qua ba trùng vi thạch trận.
- Trùng vi một: Trước sự hung hãn của đá và sóng nước, ông lái đò kiên cường bám trụ “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Trước đoàn quân liều mạng sóng nước xông vào..., ông đò “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi” nhưng vẫn kiên cường vượt qua cuộc hỗn chiến, vẫn cầm lái chỉ huy “ngắn gọn mà tỉnh táo” để phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất.
- Trùng vi hai: Con Sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn. Ông lái đò “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”.Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá, ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên dòng thác như cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước xô ra, ông đò không hề nao núng mà tỉnh táo, linh hoạt 0,5 2,0 thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến” để rồi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.
- Trùng vi ba: Bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội. Ông đò càng chứng tỏ được tài nghệ của mình, cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “Thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng.
- Nguyên nhân chiến thắng:
+ Nhờ ông lái đò ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống.
+ Nhờ sự tài trí, sự am hiểu đến tường tận tính nết của Sông Đà.
* Cảm nhận nghệ thuật:
- Thể loại tuỳ bút tự do, phóng túng.
- Tài hoa: Sử dụng nhiều động từ mạnh ; nhiều hình ảnh so sánh, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ thú vị; nhịp điệu câu văn nhanh, mạnh, dồn dập.
- Uyên bác: Vận dụng kiến thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau.
2. Nhận xét về cái nhìn mang tính phát hiện về con người của Nguyễn Tuân.
- Tuân thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện về con người: Người anh hùng không chỉ có ở chiến trường chống giặc ngoại xâm mà còn có ngay trong cuộc sống lao động hằng ngày. Với Nguyễn Tuân, ông đò còn là một nghệ sĩ bởi ông chỉ là người lao động bình thường nhưng đã hoàn thành công việc bình thường ấy một cách xuất sắc.
- Đây chính là cách Nguyễn Tuân tôn vinh, ca ngợi ý chí con người, ngợi ca lao động vinh quang đã giúp con người chiến thắng sức mạnh của thiên nhiên hung dữ. Và ông lái đò là chất vàng mười đã qua thử lửa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
=> Qua đó thấy được phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác và cá tính sáng tạo mạnh mẽ của nhà văn.
3. Đánh giá:
Cảnh vượt thác của ông lái đò chính là một cảnh tượng độc đáo, hấp dẫn người đọc đến từng câu từng chữ. Qua đó, nhà văn đã ca ngợi sự trí dũng tài hoa, ca ngợi tư thế chiến thắng của con người trước sông Đà nham hiểm thâm độc, hung bạo.
III. Kết luận
- Khái quát lại vấn đề.
- Giá trị nội dung, nghệ thuật.