Thứ sáu, 22/11/2024
IMG-LOGO
Trang chủ Thi thử THPT Quốc gia Văn (2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 37)

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 37)

(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 37)

  • 30 lượt thi

  • 7 câu hỏi

  • 60 phút

Danh sách câu hỏi

Câu 1:

Nêu tình huống kịch trong văn bản.

Xem đáp án

Tình huống kịch trong văn bản: Ác-pa-gông ép gả con gái E-li-dơ cho ngài Ăng-xen-mơ, một quý tộc chính cống, từng trải, của cải như nước, đã giá vợ, không còn một đứa con nào của vợ trước, không đòi hỏi của hồi môn.


Câu 2:

Lời thoại nào trong văn bản là lời độc thoại?

Xem đáp án

Lời độc thoại trong văn bản: “Úi chà! Hình như có tiếng chó sủa. Có kẻ muốn lấy trộm tiền của mình chăng?”


Câu 3:

Chỉ ra và làm rõ mục đích giao tiếp của Va-le-rơ được thể hiện qua các lời thoại của nhân vật này.
Xem đáp án

Mục đích giao tiếp của Va-le-rơ được thể hiện qua lời thoại của nhân vật: (1) Thuyết phục Ác-pa-gông từ bỏ ý định gả con gái cho Ăng-xen-mơ. Để thực hiện được mục đích này, Va-le-rơ đã phân tích những lí do như: cưới ngay như thế thì hấp tấp, ít ra phải khoan khoan xem tính tình cô cháu có hợp không; việc trăm năm là việc trọng đại hơn người ta tưởng nhiều và có quan hệ đến một đời người, sướng hay khổ, phải hết sức thận trọng mới được; phải chú ý xem lòng dạ người con gái thế nào mới phải, chứ tuổi tác quá chênh lệch, tính tình tình cảm quá khác nhau như thế thì lấy nhau chỉ gây ra tai hoạ, rất rầy rà; vô số ông bố muốn coi trọng việc làm toại ý con hơn là đồng tiền bỏ ra cho con, không muốn vì tiền tài mà hi sinh con, chẳng mong gì hơn là tìm cho con được nơi vừa đôi phải lứa để cuộc đời con luôn giữ được thanh danh, được êm ả, vui vẻ. (2) Bảo vệ tình yêu của mình với Ê-li-dơ. Va-le-rơ và Ê-li-dơ đã thầm ước hẹn. Nếu thuyết phục được Ác-pa-gông từ bỏ ý định ép duyên con thì cũng đồng nghĩa Va-le-rơ có cơ hội để tìm cách công khai tình cảm của mình.


Câu 4:

Việc lặp lại chi tiết “Không của hồi môn” trong lời thoại của nhân vật Ác-pa-gông đem lại hiệu quả nghệ thuật gì?
Xem đáp án

Chi tiết “Không của hồi môn” lặp lại nhiều lần trong lời thoại của Ác-pa-gông (4 lần – chưa kể 2 lần trong lời thoại của Va-le-rơ và được Ác-pa-gông xác nhận, tán thưởng, không ngại tâng bốc anh đầy tớ) mang lại hiệu quả nghệ thuật: (1) Nhấn mạnh, khắc hoạ đậm nét tính cách nổi bật, điển hình của Ác-pa-gông: thói hám tiền, hám lợi, keo kiệt, bất chấp tất cả – chênh lệch tuổi tác, tính tình, hoàn cảnh, tình cảm, sự phản ứng dữ dội của con,... để đạt được mục đích “tiết kiệm được một món to”. “Không của hồi môn” trở thành một điều kiện quan trọng duy nhất để lão định đoạt hôn nhân của con cái, “thay thế cho sắc đẹp, cho tuổi trẻ, cho dòng dõi, cho danh dự, cho sự khôn ngoan, cho lòng chính trực”. Lời thoại “Không của hồi môn” vang lên như ở miệng lão như một cái máy nói, vừa lạnh lùng, tựa một bức tường thành vững chắc, người khác càng có ý định lay chuyển thì nó càng trở nên sắt đá; vừa tràn đầy cảm xúc hí hửng, hân hoan, phấn khích vì nắm ngay được một cơ hội vàng mà không đám nào hòng có được; trở thành một ý nghĩ duy nhất choán đầy, chi phối toàn bộ tâm trí và hành động của lão. (2) Tạo nên tiếng cười châm biếm, đả kích nhân vật, phê phán sự lên ngôi, thống trị của đồng tiền. Đồng tiền lạnh lùng đã khiến con người phát cuồng lên, mờ mắt vì nó và sẵn sàng bất chấp tất cả, kể cả những tình cảm thiêng liêng như tình yêu, tình phụ tử,...


Câu 5:

Tiếng cười trong văn bản có ý nghĩa như thế nào đối với sự tiến bộ xã hội?

Xem đáp án

Tiếng cười trong văn bản chẳng những có tác dụng giải trí mà còn giàu ý nghĩa, giá trị đối với sự tiến bộ xã hội: (1) Giúp người đọc nhận thức được tác hại ghê gớm, khủng khiếp khi đồng tiền chiếm địa vị thống trị trong cuộc sống. Thói keo kiệt, hám vàng, tôn thờ đồng tiền là “chúa tể của tâm hồn” đã khiến con người trở nên thực dụng, lạnh lùng, toan tính, mưu mô, sẵn sàng đánh đổi mọi thứ, hi sinh những điều thiêng liêng khác, làm băng hoại những giá trị đạo đức của xã hội. (2) Giúp con người có khát vọng “tống tiễn”, cái xấu, cái ác – thói tham lam, keo kiệt – trong cuộc sống và những thói hư tật xấu trong chính bản thân mình, làm cho xã hội trở nên tốt đẹp, lành mạnh, nhân ái hơn,... (3) Tất cả những điều này trong tác phẩm hài kịch được thể hiện bằng một phương thức đặc biệt, thứ vũ khí đặc biệt: tạo ra tiếng cười để qua đó cải tạo cuộc sống.


Câu 6:

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích cái tôi của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện trong văn bản sau:

Mùa hạ, trong những khu vườn Huế, khi đất xông lên hùng mạnh, cỏ mọc xanh lạ thường. Trái cây sắp chín nằm chờ trên cành, và khắp đây đó trong vùng Kim Long, khói đốt cỏ toả ra mịt mùng xanh mờ một vùng ven sông. Trên một chiếc bình phong cổ khuất trong cây lá của một khu sân vắng vẻ còn dấu chạm lỗ chỗ của một câu đối nói đến những bầy chim nhạn thường về đậu kêu om sòm trên bãi sông Hương trước mặt nhà. Tôi lớn lên không hề thấy bóng chim nhạn ven sông này. Chắc cũng giống như lũ côn trùng kia, chúng đã di trú về một vùng đất nào yên tĩnh hơn. Nhưng liệu có nơi nào gọi là “yên tĩnh hơn” trên hành tinh này. Hình như càng ngày nó càng trở nên ồn ào hơn xưa; và đó cũng là lỗi của chúng ta đã tước đoạt “quyền yên tĩnh” của thế hệ trẻ ngày mai. Mùa thu trời trở gió heo may lành lạnh làm người ta tự nhiên thấy nhớ nhung một quê hương nào không biết. Vào mùa này, các văn nhân thường mở hội leo núi, mang theo túi thơ bầu theo túi thơ bầu rượu lên các đỉnh núi cao mừng tiết “Trùng Cửu”. Núi đó có thể là núi Ngự Bình, núi Kim Phụng hoặc những rừng thông vùng đồi Thiên An, và văn nhân có thể là Bà Huyện Thanh Quan, Tuy Lý Vương, Hàn Mặc Tử. Những văn nhận ngồi uống rượu đầu núi, nghe tiếng chuông chùa thánh thót trên thành phố dầm mình trong sương khói; đi thăm núi trở về, băng qua sườn đồi, vó ngựa còn thơm nồng hương cỏ, gọi lũ bướm bay theo. Thơ Tuy Lý Vương nói: “Minh triệu sất mã sơn đầu quả/ Ngoạ thỉnh tùng thanh ức ngã sầu”[1].

Một thứ hạnh phúc kéo dài trong nhiều năm tháng thật khó có ở đời; hạnh phúc chỉ tồn tại trong từng khoảnh khắc. Đó là khoảnh khắc mà ta nằm buồng mình trên cỏ, ngửa mặt nhìn từng áng mây chẳng biết bay về đâu. Vâng, chính đó là những áng mây mà người đời Đường đã từng thấy: “Bạch vân vô tận thi[2]

Huế, 4/8/2003

(Trích Miền cỏ thơm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 179, 180, 2009)



[1] “Minh... sầu”: Sáng mai ruổi ngua lên đầu núi/ Nghe thông reo chợt nhớ ta buồn.

[2] “Bạch... thi”: Phau phau mây trắng ngàn năm vẫn còn.

 

Xem đáp án

a. Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Cái tôi của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tuỳ bút Miền cỏ thơm.

b. Thân đoạn: Làm rõ vấn đề nghị luận

(1) Nêu ngắn gọn về cái tôi trữ tình trong tuỳ bút (thế giới tinh thần chủ quan in đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, được thể hiện qua cách nhìn, cách cảm, cách sử dụng ngôn ngữ). (2) Làm rõ vẻ đẹp của cái tôi tác giả trong văn bản: + Một cái tôi tài hoa, uyên bác: Trong cách cảm nhận nét riêng của một “miền cỏ thơm” – xứ Huế vào mùa hạ và mùa thu với những đặc trưng nổi bật của cỏ cây, khí hậu. Những câu văn đẹp, giàu hình ảnh, thấm đẫm cảm xúc, nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng, giàu chất thơ và hướng nội; Trong những liên tưởng phong phú về lĩnh vực thi ca, đậm màu sắc hội hoạ (tên tuổi, hình ảnh các văn nhân uống rượu trên đầu núi, nghe tiếng chuông chùa dầm mình trong sương khói, đi thăm núi trở về, băng qua sườn đồi, vó ngựa còn thơm nồng hương cỏ); Những chiêm nghiệm sâu sắc mà thấm thía về hạnh phúc giản dị, tồn tại trong từng khoảnh khắc, khi con người buông mình trong cỏ mà nhận ra cái vô cùng, vô tận, cái thanh cao, muôn đời của áng mây trắng ngàn năm; + Một cái tôi gắn bó sâu nặng với Huế, với quê hương, nguồn cội: Đó là sự hoài niệm về những hình ảnh đẹp của thiên nhiên từng gắn bó với sông Hương, là cảm xúc “tự nhiên thấy nhớ nhung một quê hương nào không biết”, là niềm khắc khoải lo lắng vì Huế hình như càng ngày càng trở nên ồn ào hơn, là sự thức tỉnh về “lỗi” của chúng ta khi tước đoạt “quyền yên tĩnh” của “miền cỏ thơm”. Những địa danh trong văn bản được nhắc đến như một phần của Huế, của quê hương với biết bao yêu mến, thân thương: vùng Kim Long, núi Ngự Bình, núi Kim Phụng, những rừng thông vùng đồi Thiên An,...).

c. Kết đoạn: Khẳng định lại và bày tỏ cảm xúc, đánh giá khái quát về cái tôi tác giả được thể hiện trong văn bản.


Câu 7:

Tri thức là con mắt của đam mê và có thể trở thành hoa tiêu của tâm hồn. (Benjamin Franklin)

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên.

Xem đáp án

a. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Vai trò của tri thức trong mối quan hệ với đam mê và sự bồi đắp tâm hồn của con người – Tri thức là con mắt của đảm mê và có thể trở thành hoa tiêu của tâm hồn (Benjamin Franklin).

b. Thân bài

b1. Giải thích: (1) Tri thức: Những hiểu biết của con người về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội do học tập, trải nghiệm, tích luỹ,... mà có được; (2) Đam mê: Sự ham thích, có hứng thú, say mê đặc biệt với một điều gì đó đến mức dường như quên hết tất cả những việc khác; (3) Con mắt: Nghĩa gốc vốn để chỉ cơ quan giúp con người có thể nhìn thấy thế giới bên ngoài, trong câu văn này, con mắt mang nghĩa biểu tượng giúp con người biết nhận thức, định hướng,... trong cuộc sống. (4) Hoa tiêu: Người am hiểu tình hình, điều kiện đường thuỷ và đường không, giúp cho việc điều khiển tàu bè, máy bay hoạt động an toàn, trong câu văn được dùng với nghĩa ẩn dụ – giúp con người định hướng và tự điểu chỉnh bản thân trong hành trình xây dựng, bồi đắp tâm hồn. (5) Nội dung của câu nói: Khẳng định tri thức có vai trò quan trọng, giúp con người làm chủ niềm đam mê và định hướng cho họ trong quá trình bồi dưỡng tâm hồn.

b2. Khẳng định sự tích cực, đúng đắn của ý kiến “Tri thức là con mắt của đam mê và có thể trở thành hoa tiêu của tâm hồn.” (Benjamin Franklin), sử dụng lí lẽ, bằng chứng để phân tích, chứng minh bảo vệ suy nghĩ, quan điểm đã nêu

(1) Tri thức cho chúng ta “con mắt” để xác định và lựa chọn niềm đam mê cho bản thân. Con người thường có những đam mê. Trong số đó có những đam mê chân chính, hữu ích, là nguồn năng lượng dồi dào, mạnh mẽ, truyền cảm hứng để chúng ta vươn tới, nỗ lực chinh phục. Song cũng có những đam mê ngộ nhận, sai lầm, tội lỗi có thể đẩy con người vào vực thẳm của sự sa ngã; Sống trong niềm đam mê, con người thường hành động theo sự chi phối của tình cảm, cảm hứng, sự say mê quá đỗi, ít quan tâm đến việc hành động theo lí trí, cũng ít quan tâm đến khả năng thực sự của mình, vì vậy dễ bị mù quáng; Tri thức giúp chúng ta xác định đâu là niềm đam mê chân chính xứng đáng để theo đuổi, đâu là những “cái bẫy đam mê” cần phải tránh xa; Tri thức cho chúng ta “con mắt” để xác định liệu niềm đam mê của ta có thực sự phù hợp với chúng ta không để cân nhắc, điều chỉnh. Trị thức cho chúng ta một lí trí sáng rõ để “Nếu đam mê chở bạn đi, hãy để lí trí nắm lấy dây cương” (Benjamin Franklin). (2) Tri thức là “hoa tiêu” giúp chúng ta xác định con đường để chinh phục đam mê, bồi đắp tâm hồn: + Chinh phục đam mê, bồi đắp tâm hồn là một quá trình hành động của con người. Niềm đam mê cần được hiện thực hoá bằng những việc làm cụ thể. Để có thể thực hiện được điều ấy, chỉ sự say mê hưng phấn là chưa đủ. Cần có tri thức để vạch đường dẫn lối bước đi, giúp ta xác định mình sẽ bắt đầu bằng điều gì, thực hiện như thế nào, vì sao làm như vậy thì có thể thành công, những sai lầm nào có thể xảy ra trong quá trình thực hiện,... “Trí tuệ thông suốt cũng có nghĩa là đam mê thông suốt” (Blaise Pascal); Chinh phục đam mê, bồi đắp tâm hồn cũng là quá trình lâu dài, nhiều khó khăn, thử thách. Trở ngại có thể đến từ những yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau. Tri thức giúp chúng ta có khả năng phân tích, xác định nguyên nhân, tìm cách khắc phục, cho con người niềm tin và sự kiên trì để đi theo con đường mình đã chọn. (3) Chứng minh, làm rõ ý kiến bằng các minh chứng: Nhận thức được vai trò quan trọng của tri thức, nền giáo dục của các quốc gia trên thế giới đều chú trọng bồi đắp, mở mang hiểu biết cho con người (phong trào diệt “giặc dốt” của chính quyền cách mạng ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia trong đó có nước ta, các cột trụ học tập được đề xướng bởi UNESCO, tư tưởng học tập suốt đời,...); Những tấm gương của các nhà khoa học, các nhà hoạt động chính trị xã hội theo đuổi niềm đam mê nghiên cứu và cải tạo xã hội bằng con đường của sự mở mang tri thức, học tập không ngừng; Bối cảnh “thế giới phẳng” đã tạo cơ hội cho nhiều bạn trẻ mở rộng cánh cửa hiểu biết, chinh phục đam mê trong những lĩnh vực khác nhau: nghiên cứu, sáng tạo, trải nghiệm, bồi đắp tâm hồn thêm giàu có, phong phú, thu được những thành công; Một số bạn trẻ chưa biết sử dụng hiểu biết để định hướng cho đam mê và con đường tu dưỡng, xây dựng tâm hồn nên đã sa đà, lạc lối vào những đam mê sai trái, vi phạm chuẩn mực đạo đức, pháp luật,...

b3. Bình luận, liên hệ

(1) Tri thức, đam mê là hai trong số nhiều yếu tố làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Trong cuộc sống, cần tránh độc tôn: chỉ quan tâm đến tri thức mà nguội tắt đam mê, chỉ theo đuổi niềm say mê, hưng phấn mà không có định hướng hiểu biết. (2) Hãy làm bừng “con mắt” sáng của đam mê, sự tinh thông của “hoa tiêu” trong tâm hồn mình bằng cách nỗ lực học hỏi, khám phá, nâng cao hiểu biết, nuôi dưỡng ngọn lửa đam mê, kiên trì, bền bỉ theo đuổi con đường đã chọn; chia sẻ ngắn gọn trải nghiệm về giá trị, vai trò của tri thức trong việc định hướng, dẫn đường cho đam mê và hành trình xây đắp tâm hồn bản thân của cá nhân.

c. Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa của vấn đề nghị luận: Ý kiến giúp mỗi chúng ta có hiểu biết đúng đắn về vai trò của tri thức, trau dồi hiểu biết để làm chủ niềm đam mê và hành trình kiến tạo tâm hồn.


Bắt đầu thi ngay