Đề luyện tập ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn (Đề số 23)
-
97 lượt thi
-
7 câu hỏi
-
120 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Vấn đề trọng tâm được tác giả đề cập trong văn bản là gì?
Câu 2:
Chỉ ra mục đích của tác giả qua văn bản trên.
Câu 3:
Nêu hiệu quả của việc tách một bộ phận câu thành câu độc lập trong đoạn văn sau:
“Có người sống vui với hoàn cảnh, không khổ sở vì thiếu chức cao, vọng lớn, không buồn vì luôn thèm những bữa ăn ngon, lên xe xuống ngựa, không ghen tức vì kẻ khác giàu có hơn mình, danh vị hơn mình. Luôn nhường nhịn, giúp đỡ kẻ khác chứ không mong được hơn kẻ khác.”.
– Một thành phần vị ngữ của câu được tách thành câu độc lập: Luôn nhường nhịn, giúp đỡ kẻ khác chứ không mong được hơn kẻ khác.
– Hiệu quả: tách hai ý không và có nhằm nhấn mạnh và đề cao lối sống vui với hoàn cảnh, luôn nhường nhịn, giúp đỡ người khác, đối lập với lối sống cay cú, ăn thua, hiếu thắng, ghen tức, bon chen,…Câu 4:
Chỉ ra và nêu tác dụng của sự kết hợp thao tác phân tích và bác bỏ trong việc làm nổi bật chủ đề được bàn luận.
Chỉ ra và nêu tác dụng của việc kết các thao tác phân tích và bác bỏ trong việc làm nổi bật chủ đề được bàn luận.
– Chỉ ra thao tác phân tích và bác bỏ đã được sử dụng:
+ Thao tác phân tích: các đoạn văn số (2), (3), (4) đi sâu chỉ ra các biểu hiện của sống dễ và sống khó, sống khổ sở.
+ Thao tác bác bỏ được sử dụng trong đoạn (5).
– Việc sử dụng kết hợp các thao tác đã làm nổi bật chủ đề của văn bản với các biểu hiện cụ thể của sống dễ và sống khó; đồng thời làm sâu sắc thêm vấn đề bằng cách bác bỏ phủ định những quan điểm sai lầm về sống vui, sống dễ.Câu 5:
Từ văn bản trên, anh / chị rút ra bài học gì trong việc lựa chọn lối sống đúng đắn cho mình?
Rút ra bài học gì trong việc lựa chọn lối sống đúng đắn cho mình:
HS tự rút ra thông điệp, bài học cuộc sống trong việc lựa chọn lối sống đúng đắn, ý nghĩa cho bản thân và lí giải ngắn gọn. Có thể tham khảo gợi ý sau:
– Sống vui với hoàn cảnh, khiêm nhường.
– Sống vị tha, biết khoan dung, rộng lượng.
– Sống thanh thản, biết trân quý cuộc sống.Câu 6:
II. Làm văn
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang đi vào cuộc sống mỗi quốc gia và biến những điều không tưởng thành hiện thực.
Nhà khoa học Stephen William Hawking cho rằng: “Sự phát triển toàn diện của trí tuệ nhân tạo có thể huỷ diệt nhân loại”. Tỉ phú Jack Ma, người sáng lập Tập đoàn Alibaba lại cho rằng: “Máy tính có thể thông minh, nhưng con người còn thông minh hơn”. Vậy, trí tuệ nhân tạo là tương lai hay tận thế của con người?
Với tư cách là chủ nhân của tương lai, anh/ chị hãy bày tỏ quan điểm bản thân bằng đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ).
HS cần nêu được các ý chính sau đây:
a) Mở đoạn: Dẫn dắt, giới thiệu được vấn đề cần nghị luận: Trí tuệ nhân tạo là tương lai hay tận thế của con người?
b) Thân đoạn:
b.1. Giải thích
– “Trí tuệ nhân tạo (AI)” là gì? (Gợi ý: AI là trí thông minh nhân tạo, là trí thông minh được thể hiện bằng máy móc, có khả năng bắt chước các chức năng nhận thức của con người.)
– Nêu thực trạng về sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa và thành tựu của khoa học công nghệ trên thế giới ngày nay. (Trí tuệ nhân tạo đang đi vào cuộc sống mỗi quốc gia và biến những điều không tưởng thành hiện thực.)
b.2. Bày tỏ quan điểm của bản thân và lí giải: trí tuệ nhân tạo là tương lai hay tận thế của con người?
– Tại sao trí tuệ nhân tạo là tương lai tất yếu của con người? Bởi trí tuệ nhân tạo thực chất là thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại đang ngày càng phát triển vượt bậc trong đời sống xã hội; giúp tiết kiệm thời gian, công sức lao động và làm việc chính xác, hiệu quả.
– Trí tuệ nhân tạo là một thách thức lớn đối với nhân loại khi phát triển đến mức hoàn thiện nhất: tỉ lệ thất nghiệp tăng, dư thừa lao động và nhân lực, kể cả lĩnh vực đặc thù, con người sẽ bị lệ thuộc,... Nếu ý lại và lạm dụng trí tuệ nhân tạo, hoặc sử dụng với mục đích tiêu cực thì có thể trí tuệ nhân tạo sẽ phản tác dụng và mang lại những hậu quả khôn lường, thậm chí có thể là dấu chấm hết cho nhân loại.
c) Kết đoạn: Khẳng định quan điểm về vấn đề.
Con người cần luôn tỉnh táo, thông minh trước những giới hạn phát triển của trí tuệ nhân tạo; cần phải luôn thông minh hơn máy tính để kiểm soát mọi rủi ro;...
Câu 7:
Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích, đánh giá đặc điểm của thể loại bi kịch (nhân vật chính, xung đột, ngôn ngữ, hiệu ứng thanh lọc,...) thể hiện trong đoạn trích sau:
(Giới thiệu: Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài. Để ăn chơi hưởng lạc, hôn quân Lê Tương Dực đã bắt ông xây dựng Cửu Trùng Đài. Vũ Tố Như kiên quyết chối từ dù bị đe dọa đến tính mạng. Cung nữ Đan Thiềm đã thuyết phục ông chấp nhận yêu cầu, lợi dụng tiền bạc và quyền lực của hôn quân để xây dựng cho đất nước tòa đài hoa lệ. Nhưng xây Cửu Trùng Đài vô cùng tốn kém; nhân dân phải chịu sưu cao thuế nặng, đói rét, lầm than,... điều đó khiến người dân vô cùng oán hận. Quận công Trịnh Duy Sản dấy bình, lôi kéo thợ làm phán, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và thiêu huỷ Cừu Trùng Đài.).
Đoạn trích sau là đối thoại giữa Đan Thiềm thuyết phục Vũ Như Tô.
Hồi thứ nhất – Lớp VII
Đan Thiềm – Vũ Như Tô
ĐAN THIỀM: Thảo nào mà nước ta không có lấy một lâu đài nào ra hồn, khả đĩ sánh với những lâu đài Trung Quốc. Ngay cả Chiêm Thành cũng hơn ta nhiều lắm...
VŨ NHƯ TÔ: Tôi bẩm sinh có khiếu về kiến trúc. Tôi đã học văn, sau bỏ văn tập nghề, nhưng tập thì tập, vẫn lo nơm nớp, chỉ sợ triều đình biết thì vợ con ở nhà nheo nhóc, mà mình cũng không biết bao giờ được tháo cũi sổ lồng. Vua Hồng Thuận ngày nay càng khinh rẻ chúng tôi, cách đối đãi lại bạc ác. Chẳng qua là cái nợ tài hoa, chứ thực ra theo nghề ở ta lợi chẳng có mà nhục thì nhiều.
ĐAN THIÊM: Chính vì thế mà ông càng đáng trọng.
VŨ NHƯ TÔ: Trọng để làm gì? Tìm danh vọng chúng tôi đã chẳng chọn nghề này. Đời lẩn lút...
ĐAN THIÊM: Vậy thì các ông luyện nghề làm gì, luyện mà không đem ra thi thố?
VŨ NHƯ TÔ: Đó là nỗi khổ tâm của chúng tôi. Biết đa mang là khổ nhục mà không sao bỏ được. Như bóng theo hình. Chúng tôi vẫn chờ dịp.
ĐAN THIỀM: Dịp đấy chứ đâu? Cửu Trùng Đài...
VŨ NHƯ TÔ: Bà đừng nói nữa cho tôi thêm đau lòng. Ngày ngày, tôi thấy các bạn thân bị bắt giải kinh, người nhà khóc như đưa ma. Còn tôi, mong manh tin quan đến bắt, tôi đem mẹ già, vợ và hai con nhỏ đi trốn. Được một năm có kẻ tố giác, quan địa phương đem lính tráng đến vây kín nơi tôi ở. Tôi biết là tuyệt lộ, mặc cho họ gông cùm. (Chàng rơm rớm nước mắt) Mẹ tôi chạy ra bị lính đẩy ngã, chết ngay bên chân tôi. Bọn sai nha lộng quyền quá thể. Rồi tôi bị giải lên tỉnh, từ tỉnh lên kinh, ăn uống kham khổ, roi vọt như mưa trên mình, lắm khi tôi chết lặng đi. Mẹ cháu lẽo đẽo theo sau, khóc lóc nhếch nhác, tôi càng đau xót can tràng. Cũng vì thế mà tôi thề là đành chết chứ không chịu làm gì.
ĐAN THIÊM: Cảnh ngộ của ông thì đáng thương thực. Nhưng ông nghĩ thế thì không được.
VŨ NHƯ TÔ: Sao vậy?
ĐAN THIỀM: Không được. Vì đức Hồng Thuận sẽ bắt ông chịu cực hình và còn đem tru di chín họ nhà ông. Ông đã tu được bao nhiêu công quả mà phạm vào tội đại ác ấy?
VŨ NHƯ TÔ: Tài đã không được trọng thì đem trả trời đất. Đó là lẽ thường. Cũng như nhan sắc...
ĐAN THIỀM: Không thể ví thế được, sắc vất đi được, nhưng tài phải đem dùng.
VŨ NHƯ TÔ: Bà đã thương tài xin giúp cho tôi trốn khỏi nơi này. Ơn đó xin...
ĐAN THIỀM: Tôi giúp cũng không khó gì. Nhưng ra khỏi chốn này liệu ông có thoát hẳn được không? Hơn nữa, cái vạ tru di cửu tộc vẫn còn chờ chờ ra đó. Ông đừng tính nước ấy, không nên.
VŨ NHƯ TÔ: Vậy bà khuyên tôi nên ở đây làm việc cho hôn quân sao?
ĐAN THIỀM: Miễn là ông không bỏ phí tài trời. Ông nên lợi dụng cơ hội đem tài ra thi thố.
VŨ NHƯ TÔ: Xây Cửu Trùng Đài?
ĐAN THIỀM: Phải.
VŨ NHƯ TÔ: Xây Cửu Trùng Đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm một việc ô uế, muôn năm làm bia miệng cho người đời được.
ĐAN THIỀM: Ông biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phải đem cống hiến cho non sông, không nên để mục nát với cỏ cây. Ông không có tiền, ông không có thể dựng lấy một tòa đài như ý nguyện. Chấp kinh, phải tòng quyền. Đây là lúc ông nên mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông... Ông khẽ tiếng. Đó là tiểu tiết. Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện, không phải thẹn với những cung điện đẹp nước ngoài, thế là đủ. Hậu thế sẽ xét công cho ông, và nhớ ơn ông mãi mãi. Ông hãy nghe tôi làm cho đất Thăng Long này thành nơi kinh kì lộng lẫy nhất trần gian.
VŨ NHƯ TÔ: Đa tạ. Bà đã khai cho cái óc u mê này. Thiếu chút nữa, tôi nhỡ cả. Những lời vàng ngọc tôi xin lĩnh giáo. Trời quá yêu nên tôi mới được gặp bà.
ĐAN THIÊM: Tôi cũng may được gặp ông. Xin ông cố đi. Đức vua ngự tới.
Lê Tương Dực vào.
(Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô, in trong Tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng,
NXB Sân khấu, Hà Nội, 2006, tr. 35 – 39)
HS cần nêu được các ý chính sau đây:
a) Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận: tác giả và vở kịch Vũ Như Tô; đặc điểm của thể loại bi kịch (nhân vật chính, xung đột, ngôn ngữ, hiệu ứng thanh lọc,...) thế hiện trong đoạn trích.
b) Thân bài:
b.1. Giải thích khái niệm bi kịch là gì? Giới thiệu vở bi kịch lịch sử Vũ Như Tô; đoạn trích mang đầy đủ những đặc trưng của thể loại bi kịch.
b.2. Phân tích đặc điểm thể loại bi kịch trong đoạn trích
– Nhân vật chính mang nỗi đau đớn: một người tài đức nhưng sinh lầm thời, cảnh ngộ thương tâm, là nạn nhân của hôn quân bạo chúa (bị đối xử khinh rẻ bạc ác, từng bị truy đuổi, mẹ chết, bị dọa cực hình và tru di cửu tộc); nỗi khổ tâm của một người có tinh thần dân tộc nhưng không muốn cái tài phục vụ bạo chúa; lầm lạc trong suy nghĩ và hành động (nghe lời Đan Thiềm để có giải pháp tạm thời nhưng lại là nguồn cơn của bi kịch lớn sau này).
– Xung đột kịch: giữa người tài đức với hôn quân; giữa khát vọng cao cả và số phận khắc nghiệt (mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô và bạo chúa càng được đẩy lên căng thẳng cao trào, ông không chịu xây Cửu Trùng Đài, muốn bỏ trốn).
– Ngôn ngữ kịch: lời thoại ngắt nhịp ngắn, chậm rãi, nghẹn ngào, ý tứ sâu sắc, phù hợp với tâm trạng nhân vật; ngôn ngữ đối thoại sắc sảo, đậm chất triết lí; chỉ dẫn sân khấu hợp lí;...
– Hiệu ứng thanh lọc: đoạn trích đã tạo sự đồng cảm sâu sắc với độc giả (thương xót trước số phận bi đát của một con người tài đức; đau đớn trước cái tài sinh lầm thời mà bị dập vùi; lo lắng cho tương lai số phận nhân vật; cảm phục trước dũng khí của người nghệ sĩ trước sự bạo tàn,...).
b.3. Đánh giá: Những đặc điểm của thể loại bi kịch thể hiện rất đậm nét trong đoạn trích, tình huống kịch dần đẩy lên cao trào, tính cách nhân vật trở nên rõ nét,...
c) Kết bài:
– Khẳng định tính bi kịch của đoạn trích.
– Nỗi niềm cảm thương của tác giả dành cho nhân vật; tài năng viết bi kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng.