Từ năm 1950, các nước Tây Âu đã biết áp dụng những thành tựu của cách mạng Khoa học – kĩ thuật hiện đại để
A. tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
B. thay đổi hợp lí cơ cấu sản xuất trong nền kinh tế.
C. tăng năng suất lao động của ngành công nghiệp.
D. điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Đáp án A
Từ năm 1950, các nước Tây Âu đã áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng Khoa học – kĩ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
Học thuyết Phucưđa (1977) chủ trương củng cố mối quan hệ của Nhật Bản với các nước ở khu vực nào?
Năm 1996, khi bàn về Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật, hai nước Mĩ và Nhật Bản đã cam kết
Hạn chế và khó khăn của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1952–1973 là
Một trong những mục tiêu của Mĩ trong “Chiến lược toàn cầu” được áp dụng sau Chiến tranh thế giới thứ hai là
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc (1989) và trật tự thế giới hai cực Ianta sụp đổ (1991) chính sách đối ngoại của Mĩ là
Mĩ thực hiện chính sách hòa hoãn với hai nước lớn là Liên Xô và Trung Quốc nhằm mục đích
Thách thức đối với nền công nghiệp của Nhật Bản trong giai đoạn 1952 – 1973 là
Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Tây Âu được thể hiện ở việc
Lực lượng thực hiện cải cách dân chủ ở Nhật Bản trong những năm 1945–1952 là
Sự kiện lịch sử nào diễn ra làm cho tình hình căng thẳng ở Tây Âu có phần dịu đi?
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ là nước khởi đầu cho cuộc cách mạng nào?
Ý nào sau đây thuộc thành tựu trong lĩnh vực Khoa học – kĩ thuật của Nhật Bản giai đoạn từ năm 1991 đến nay?