II. LÀM VĂN
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Thước đo của cuộc đời không phải là thời gian mà là cống hiến” (Peter Marshall).
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Ý nghĩa của sống cống hiếnc. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng cần phải làm rõ ý nghĩa của sống cống hiến đối với cuộc đời mỗi người và đối với cộng đồng xã hội. Có thể triển khai theo hướng sau:
* Giải thích: “cống hiến” là sự tự nguyện, tự giác đem tài năng, sức lực của bản thân để đóng góp vào lợi ích chung của tập thể, từ đó kiến tạo nên những giá trị tích cực, tốt đẹp cho cộng đồng. Câu nói của Peter Marshall khẳng định ý nghĩa của sống cống hiến. Đây là một đức tính tốt đẹp, đáng trân quý và cần được phát huy trong cuộc đời mỗi người.
*Bàn luận:
- Cống hiến mang lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống. Cống hiến là động lực cho sự phát triển và là yếu tố tất yếu làm nên thành công. Sự cống hiến của con người có thể là lớn lao, vĩ đại, cũng có thể bắt đầu từ những điều bình dị, nhỏ bé nhưng hữu ích, ý nghĩa hàng ngày.
- Cống hiến chính là hành động trả ơn với cuộc đời. Bởi khi ta sinh ra đã nhận được rất nhiều từ cuộc đời, phải biết cho, biết cống hiến để xứng đáng với những gì được nhận. Sống cống hiến cũng là cách để ta đánh thức những tiềm năng, năng lực bên trong bản thân, giúp ta sống tận tâm hơn, tự tin, năng động và hạnh phúc hơn.
- Thước đo của cuộc sống chính là cống hiến. Sống cống hiến, sống hết mình tức là chúng ta đang vì xã hội và vì chính bản thân mình.
- Thực tế, đã có biết bao sự cống hiến, hi sinh thầm lặng, cao cả; những con người sống tận tụy, sống hết mình, dám nghĩ, dám làm, góp phần điểm tô cho một xã hội trở nên văn minh, tốt đẹp. (Lựa chọn dẫn chứng tiêu biểu)
- Trong xã hội, đáng buồn đáng trách là vẫn tồn tại những người với tư tưởng sống hẹp hòi, ích kỷ, vụ lợi, thờ ơ, thiếu trách nhiệm với tập thể, cộng đồng.
* Bài học: Mỗi người cần phải luôn nỗ lực vươn lên, cần xác định được vị trí, khả năng đóng góp của mình cho tập thể, cho cộng đồng để sống đẹp hơn, sống tốt hơn, yêu đời hơn, trân trọng ý nghĩa cuộc sống mỗi ngày.II. LÀM VĂN
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2023, tr.189-190)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Theo đoạn trích, trên chuyến tàu Thống Nhất trở về quê hương, người Cha đã trở thành một hành khách đặc biệt qua những biểu hiện nào?
Vì sao trong hình dung của người con, chiếc vé tàu Thống Nhất lại là “tấm chứng minh thư của người lính chiến trường”?