II. LÀM VĂN
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về giá trị của việc sở hữu một thái độ sống tích cực.
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân- hợp, song hành hoặc móc xíchc. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ suy nghĩ về giá trị của việc sở hữu một thái độ sống tích cực
Có thể triển khai theo hướng sau:
- Giải thích
- Thái độ sống tích cực thể hiện nhận thức, quan điểm đúng đắn về cuộc sống, về mối liên hệ giữa cá nhân với cuộc đời, về trách nhiệm của bản thân với gia đình và xã hội.
- Thái độ sống tích cực là phẩm chất đáng quý của con người, là lối sống đẹp.
- Bàn luận: thái độ sống tích cực có ý nghĩa rất quan trọng với cuộc sống của mỗi con người:
+ Người có thái độ sống tích cực luôn nhìn cuộc sống bằng thái độ lạc quan, luôn chủ động trước mọi hoàn cảnh.
+ Thái độ sống tích cực giúp con người xác định được mục tiêu; sống có ước mơ, hoài bão; dám phấn đấu cho ước mơ, hoài bão dù phải đối diện với nhiều thử thách khó khăn.
+ Người có thái độ sống tích cực luôn có khát vọng vươn lên khẳng định bản thân và hoàn thiện mình, là yếu tố quan trọng giúp con người đạt đến thành công.
+ Thái độ sống tích cực của cá nhân góp phần thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ.
(HS nêu dẫn chứng phù hợp)
- Phản biện: Một số người còn có thái độ sống tiêu cực, không nỗ lực cố gắng, thường xuyên đổ lỗi cho hoàn cảnh, hay than vãn, bao biện…
- Bài học
+ Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa to lớn của thái độ sống tích cực nhất là trong xu thế hội nhập của đất nước.
+ Tích cực phấn đấu rèn luyện trong học tập, trong cuộc sống, bồi dưỡng lòng tự tin, ý thức tự chủ.Anh/chị hiểu như thế nào về câu: Thái độ sống tích cực chính là chìa khóa của hạnh phúc?
II. LÀM VĂN
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả được nợ
(…)
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12 tập 2,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr4-6)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn tư tưởng nhân đạo của nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Theo tác giả, sự khác nhau về cách nhìn cuộc sống giữa người tích cực và người tiêu cực là gì?