Cảm nhận về nhân vật Phùng khi người nghệ sĩ đối diện với những phát hiện đầy những bất ngờ trên bãi biển buổi sớm mai, trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ.
- Văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ, nhiều những khám phá mới mẻ, diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ - Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Chiếc thuyền ngoài xa - Dạng bài: Cảm nhận về hình tượng nghệ sĩ trước cảnh huống đặc biệt, bất ngờ - Yêu cầu: Thông qua việc cảm nhận về nhân vật khi chứng kiến tình huống đây bất ngờ: chiếc thuyền ngoài xa và chiếc thuyền khi tiến lại gần bờ, nhà vẫn thông qua đó đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc về cách nhìn, về cái nhìn, đặc biệt là đối với người nghệ sĩ, người sáng tạo. | |||
TIẾN TRÌNH BÀI LÀM | |||
KIẾN THỨC | HỆ THỐNG Ý | NỘI DUNG CẦN ĐẠT | ĐIỂM |
CHUNG | Giới thiệu tác giả - tác phẩm | - Nguyễn Minh Châu là nhà văn khoác áo lính, ông là gương mặt nhà văn tiêu biểu trong văn học giai đoạn chống Mỹ và sau giải phóng. Nếu như trong chiến tranh, văn học Việt Nam găn mình với khuynh hướng sử thi, Nguyễn Minh Châu đã có Dấu chân người lính, Mảnh trảng cuối rừng... thì đất nước sau chiến tranh, ông trở thành vị “khai quốc công thần”, “người mở đường tinh anh” (Nguyên Ngọc) của triều đại văn học mới. Nguyên Minh Châu ý thức rất rõ về thiên chức của người nghệ sĩ trong việc phát hiện ra những bí mật ẩn chứa trong tâm hồn con người, đó là những “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. - Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm in lan đầu trong tập truyện ngắn Bến quê, sau được in thành tập truyện riêng với tên gọi Chếc thuyền ngoài xa. Đây là sáng tác mang đậm dấu ấn triết lý của Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời; về thế sự và con người; quan tâm đến số phận cá nhân. | 0.5 |
TRỌNG TÂM | Cảm nhận về nghệ sĩ Phùng qua hai phát hiện tại bãi biển | - Hai phát hiện của Phùng tại bãi biển: + Phùng đến một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh. Tại đây anh đã chụp được một bức ảnh thiên nhiên đẹp như mơ. Anh phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho”. + Anh cảm nhận trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương vẻ đẹp của cái Chân - Thiện - Mỹ. Phùng thấy tâm mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. + Một phát hiện trớ trêu, như một nghịch lý đầy bất ngờ và nhức nhối: Từ chiếc thuyền bước ra một người đàn ông dữ dằn độc ác, đánh vợ một cách vũ phu, tàn nhẫn. - Cảm nhận về nhân vật khi đốỉ diện trước hai phát hiện đầy bất ngờ, và đầy trớ trêu: + Nghệ sĩ tâm huyết, trân trọng cái đẹp: Trước hết, Phùng hiện lên như một người nghệ sĩ tâm huyết với nghề. Để có được bộ ảnh đẹp, anh không ngại ngần “mai phục” cả tuần trời để săn khoảnh khắc. + Trước vẻ đẹp của chiếc thuyền trong sương sớm, Phùng cảm thấy bối rối, trái tim như có gì bóp thắt vào. Và trong giây phút đó, Phùng đã đồng tình với quan điểm: Cái đẹp chính là đạo đức. + Là nghệ sĩ có trái tim nhạy cảm, người nghệ sĩ gắn mình với cuộc đời: Phùng bất bình trước những hành động vũ phu, tàn nhẫn, chứng kiến cảnh gã đàn ông đánh vợ, anh kinh ngạc đến độ vứt cả chiếc máy ảnh xuống. Lần 2 chứng kiến cảnh bạo hành, Phùng đã nện cho gã đàn ông một trận ra trò, không phải bằng bàn tay của một người nghệ sĩ, mà là của một người lính đã từng chiến đấu để bảo vệ mảnh đất này. + Hành trình nhận thức và vỡ lẽ của người nghệ sĩ chân chính: Ngay từ ban đầu, khi chụp được “cảnh đắt trời cho”, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện. Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống. | 3.0 |
Bàn luận | - Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà văn về nhân cách, đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. - Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Đặc biệt nhà văn đã xây dựng rất thành công “người phát ngôn nghệ thuật” cho mình: nhiếp ảnh gia Phùng. | 1.0 |
Bài làm mẫu:
Bước qua khói lửa chiến tranh, những tưởng con người sẽ được sống một cuộc sống hạnh phúc, yên bình. Thế nhưng, trong cuộc sống thời hậu chiến, những con người nhỏ bé, đáng thương vẫn phải “vật lộn” với những lo toan, mưu sinh, để rồi bao bi kịch, nghịch lí nảy sinh từ đói nghèo. Hiện thực cuộc sống với tất cả những phức tạp, đa diện ấy được Nguyễn Minh Châu phát hiện và thể hiện đầy tinh tế trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Truyện ngắn không chỉ thể hiện sự trăn trở, xót xa trước những nghịch cảnh, góc khuất của cuộc đời mà còn đặt ra trách nhiệm của nghệ thuật cũng như điểm nhìn, tư tưởng của người nghệ sĩ. Câu chuyện được dõi qua lăng kính của nhân vật Phùng, và thông qua phát hiện của anh, những mệnh đề triết lý được phát lộ.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn khoác áo lính, ông là gương mặt nhà văn tiêu biểu trong văn học giai đoạn chống Mỹ và sau giải phóng. Nếu như trong chiến tranh, văn học Việt Nam gắn mình với khuynh hướng sử thi, Nguyễn Minh Châu đã có Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng... thì đất nước sau chiến tranh, ông trở thành vị “khai quốc công thần”, “người mở đường tinh anh” (Nguyên Ngọc) của triều đại văn học mới. Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ về thiên chức của người nghệ sĩ trong việc phát hiện ra những bí mật ẩn chứa trong tâm hồn con người, đó là những “hạt ngọc ấn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm in lần đầu trong tập truyện ngắn Bến quê, sau được in thành tập truyện riêng với tên gọi Chiếc thuyền ngoài xa. Đây là sáng tác mang đậm dấu ấn triết lý của Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời; về thế sự và con người; quan tâm đến số phận cá nhân.
Tình huống truyện trong tác phẩm là tình huống nhận thức, một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống nhận thức này là được dành cho nhân vật Phùng. Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đến một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh. Tại đây anh đã chụp được một bức ảnh thiên nhiên đẹp như mơ. Anh phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời cầm máy anh chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Anh cảm nhận trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương vẻ đẹp của cái Chân - Thiện - Mỹ. Phùng thấy tâm mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Thế nhưng, một phát hiện tiếp theo, đầy trớ trêu, như một nghịch lý đầy bất ngờ và nhức nhối: Bức tranh đẹp như mơ nhưng khi lại gần lại là cảnh đời ngang trái, và tàn nhẫn. Vén bức màn của màn sương là những con người thô kệch, xấu xí, lam lũ và bất hạnh. Là cảnh tượng cái ác, cái xấu đang hiện hữu trên chính cái nền mà trước đó Phùng tưởng là Chân - Thiện - Mỹ. Một người đàn ông dữ dằn độc ác, đánh vợ một cách vũ phu, tàn nhẫn.
Tạm dừng câu chuyện ở đây, để đào sâu lại về nhân vật Phùng, nhìn lại nhân vật trong cách anh cảm nhận, cư xử trước tình huống xảy ra bất ngờ, là rất nhiều những khám phá thú vị về nhân vật, đồng thời cũng nhìn nhận ra những thông điệp ý nghĩa mà nhà văn cài cắm vào.
Trước hết, phải khẳng định, Phùng là người nghệ sĩ tâm huyết, trân trọng cái đẹp. Nghệ sĩ Phùng, là nhân vật kể chuyện xưng tôi, người dẫn dắt câu chuyện, là lăng kính của nhà văn trong việc soi chiếu, kiếm tìm những hạt ngọc ấn giấu. Trước hết, Phùng hiện lên như một người nghệ sĩ tâm huyết với nghề. Để có được bộ ảnh đẹp, anh không ngại ngần “mai phục” cả tuần trời đế săn khoảnh khắc. Không ngại dậy sớm để phục kích cảnh sương sớm trên mặt biển,... việc anh có được thời khắc vàng, không phải chỉ đến từ sự may mắn, hay ngẫu nhiên. Nó đến từ cách làm nghệ thuật nghiêm túc, có tâm với nghề của Phùng. Và trời không phụ người hiền, Phùng đã chụp được khoảnh khắc mà không có đến hai lần trong đời. Nhưng điều ta cần chú ý là: Trước vẻ đẹp của chiếc thuyền trong sương sớm, Phùng cảm thấy bối rối, trái tim như có gì bóp thắt vào. Anh thấy trong tâm hồn mình tràn ngập hạnh phúc, thấy cõi lòng thật thanh sạch, như trút bỏ đi hết bao lấm bẩn ngoài kia, chỉ con lâng lâng xúc cảm cùng nghệ thuật. Và trong giây phút đó, Phùng đã đồng tình với quan điểm: Cái đẹp chính là đạo đức.
Thứ hai, Phùng là nghệ sĩ có trái tim nhạy cảm, người nghệ sĩ gắn mình với cuộc đời. Phùng bất bình trước những hành động vũ phu, tàn nhẫn, chứng kiến cảnh gã đàn ông đánh vợ, anh kinh ngạc đến độ vứt cả chiếc máy ảnh xuống. Dù biết rằng chiếc máy ảnh chứa trong đó là cả một gia tài nghệ thuật. Thế nhưng hành động ấy cho thấy Phùng là người nghệ sĩ có tấm lòng nhân ái, biết thương yêu con người, bênh vực bảo vệ con người. Người nghệ sĩ này đã đặt cuộc đời lên trên nghệ thuật. Người nghệ sĩ ấy đã nhận ra cái đẹp không bao giờ cũng là đạo đức. Lần 2 chứng kiến cảnh bạo hành, Phùng đã nện cho gã đàn ông một trận ra trò, không phải bằng bàn tay của một người nghệ sĩ, mà là của một người lính đã từng chiến đấu đế bảo vệ mảnh đất này. Như vậy, Phùng là người nghệ sĩ biết gắn mình với đời sống, bất bình, phẫn nộ trước những hành động vũ phu, tàn nhẫn của con người.
Tìm thấy cái đẹp, rồi đồng thời là chứng kiến cái ác, tình huống oái ăm ấy đã đem đến hành trình nhận thức và vỡ lẽ của người nghệ sĩ chân chính. Ngay từ ban đầu, khi chụp được “cảnh đắt trời cho”, anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện. Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà văn về nhân cách, đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Đặc biệt nhà văn đã xây dựng rất thành công “người phát ngôn nghệ thuật” cho mình: nhiếp ảnh gia Phùng.
Như vậy, qua việc xây dựng tình huống truyện mang tính phát hiện, khám phá về những phức tạp trong cuộc sống con người sau giải phóng, nhà văn Nguyễn Minh Châu không chỉ đề nhân vật Phùng thay đổi về nhận thức về cuộc sống của người đàn bà hàng chài và cũng là cuộc sống của bao con người nghèo khổ khác ngoài kia mà còn đặt ra điểm nhìn của người nghệ sĩ. Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhà văn còn khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và hiện thực của cuộc sống, thêm vào đó, đây cũng chính là sự củng cố cho bản thân nhà văn với tư duy văn học đầy mới mẻ của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người.”
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích:
Mỗi bông cỏ may như mũi kim nhỏ dệt đan tấm vải ký ức, nhắc một việc nhân hậu trong quá khứ, nhắc một cái quàng vai ấm áp, nhắc một lời động viên đúng lúc đúng người... Nên người cho dẫu đi xa nhưng vẫn như sống cùng ngày mới, cùng vui buồn đang tới, cùng những mạnh mẽ vụng dại của người đang sống.
Khi ai đó gieo những hạt mầm tốt đẹp, nhất định nó sẽ có ngày nảy nở thành vụ mùa bội thu, khiến cho dù chủ nhân có không còn trên cõi đời, thì hương hoa thơm, vị quả ngọt vẫn nhắc khôn nguôi về họ. Khi ta gieo một hạt mầm tốt đẹp ta làm cho cuộc sống của mình tỏa hương.
Khi không gian thông tin càng mở rộng, con người có xu hướng cảm thấy ngạt thở trước dòng thác cuồn cuộn rác rến, tin tức tiêu cực. Những điều đó cộng hưởng thành chất xúc tác góp vào quá trình xây đắp những định kiến, những nghi kỵ, những mất lòng tin. Tất thảy cuối cùng làm xói mòn tất cả. (1) Khiến người lầm lũi đi qua nhau. Khiến bố lẩm lũi tránh khi giữa đường gặp chuyện bất bằng. Khiến mẹ tự biết “bé cái mồm” khi khựng lại trước những gì chướng tai gai mắt. Khiến em nghĩ và tin rằng không còn ai tin vào nước mắt. Khiến anh biết sai quấy mà vẫn cho qua. Khiến chị vô cảm đi về mỗi ngày, chừng nào những đau đớn chưa chạm đến người thân ruột thịt cận kề.
Không còn tin có điều tốt trên đời là trạng thái còn đáng sợ hơn cái chết. Không còn tin có người tốt trên đời là cảm xúc của trước ngày tận thế. Trạng thái thiếu vắng niềm tin sẽ xói mòn, sẽ ăn mòn tâm hồn con người mỗi ngày còn hơn cả những bệnh tật thế chất, còn hơn cả những axit mạnh nhất. Nhất là đến một ngày không còn ai nghĩ đến gieo hạt nữa, bởi trong tâm đã thiếu vắng niềm tin về mùa màng đơm hoa kết trái.
(Chỉ là những bông cỏ may, Hà Nhân, dẫn theo https://kenhtrasua.blogspot.com)
Thực hiện các yêu cầu:
Nêu ngắn gọn chủ đề của văn bản.
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Bàn luận về ý kiến: Khi ta gieo một hạt mầm tốt đẹp ta làm cho cuộc sống của mình tỏa hương.
Tìm và nêu tác dụng của phép liên kết hình thức sử dụng trong đoạn văn bản (1) được in nghiêng.
Anh/Chị có đồng ý với quan điểm: “Không còn tin có điều tốt trên đời là trạng thái còn đáng sợ hơn cái chết”.
Theo tác giả, điều gì ăn mòn tâm hồn con người. Hậu quả của điều đó?