Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về giải pháp để vượt qua thử thách trong cuộc sống đời thường của mỗi con người.
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -phân-hợp, song hành hoặc móc xích.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: suy nghĩ về giải pháp để vượt qua thử thách trong cuộc sống đời thường của mỗi con người.
Có thể triển khai theo hướng sau:
- Thử thách là những tình huống, việc làm khó khăn, gian khổ mà con người gặp phải trong cuộc sống đòi hỏi con người có nghị lực, khả năng mới có thể vượt qua.
- Giải pháp để vượt qua thử thách trong cuộc sống đời thường của con người.
+ Bản thân phải lòng can đảm và dũng cảm để có sức mạnh tinh thần vượt qua những khó khăn, thử thách
+ Bản thân phải có thái độ bình tĩnh để suy xét vấn đề. Có thế, ta mới thật sự sáng suốt xử lí mọi tình huống bất trắc mà mình gặp phải.
+ Bản thân phải học cách chấp nhận khó khăn, thách thức. Chấp nhận không có nghĩa là buông xuôi, mà học cách chấp nhận để vượt qua những trở ngại và chông gai.
+ Con người luôn có những suy nghĩ và hành động tích cực dù rơi vào bất cứ hoàn cảnh nào: luôn tạo sự lạc quan và niềm tin vào chính mình, cố gắng nỗ lực vượt qua mọi khó khăn và thử thách, nhanh chóng tìm cách giải quyết những vấn đề còn tồn tại của mình vì cuộc sống vui vẻ, tươi đẹp và nhiều ý nghĩa vẫn luôn đang chờ đón ta ở phía trước.
+ Phê phán những người không có đủ can đảm và nghị lực để vượt qua những khó khăn thử thách đã hành động thiếu suy nghĩ dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
- Bài học nhận thức và hành động: tiếp tục học tập, rèn luyện bản thân có lập trường, tư tưởng vững vàng, dám chấp nhận và đương đầu với mọi khó khăn, thử thách, thắng không kiêu, bại không nản…
d. Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Anh/chị hiểu dòng thơ sau như thế nào ?
Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đã có lần con khóc giữa chiêm bao
Khi hình mẹ hiện về năm khốn khó
Đồng sau lụt, bờ đê sụt lở
Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn.
Anh em con chịu đói suốt ngày tròn
Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa
Có gì nấu đâu mà nhóm lửa
Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về…
Chiêm bao tan nước mắt dầm dề
Con gọi mẹ một mình trong đêm vắng
Dù tiếng lòng con chẳng thể nào vang vọng
Tới vuông đất mẹ nằm lưng núi quê hương.
( Trích “Khóc giữa chiêm bao”, Vương Trọng)
Đọc đoạn trích trên và thực hiện các yêu cầu sau:
Những từ ngữ, hình ảnh nào thể hiện năm khốn khó trong đoạn trích?
Anh/chị hãy nhận xét tình cảm của tác giả dành cho mẹ trong đoạn trích.
Chỉ ra và nêu tác dụng 01 biện pháp tu từ trong 2 dòng thơ sau:
Dù tiếng lòng con chẳng thể nào vang vọng
Tới vuông đất mẹ nằm lưng núi quê hương.
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.
Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
- Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.
- Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 30)
Anh/Chị phân tích vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái nhìn mới mẻ về con người của nhà văn Kim Lân.