Thứ sáu, 22/11/2024
IMG-LOGO

Câu hỏi:

17/07/2024 31

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài viết:

Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn có, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hải thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.

Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cử chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.6)

Trả lời:

verified Giải bởi Vietjack

a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận

Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.

 b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Phân tích đoạn trích. Từ đó, nhận xét về số phận người phụ nữ miền núi cao Tây Bắc thông qua nhân vật Mị.

 c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:

 * Giới thiệu khái quát tác giả Tô Hoài, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và đoạn trích.

 * Cảm nhận về nhân vật Mị

- Giới thiệu khái quát về nhân vật Mị là một cô gái dân tộc xinh đẹp, tài năng, hiếu thảo. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà cô bị bắt về làm dân nhà thống lí. Ban đầu Mị phản ứng quyết liệt nhưng vì thương cha nên đành chất nhận.

- Sống trong nhà thống lí, Mị đã bị tê liệt cả lòng ham sống, yêu đời lẫn tinh thần phản kháng. “bố Mị chết nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Bố chết, không còn điều gì níu giữ cô ở lại với cuộc sống nhưng Mị cũng không còn nghĩ tới cái chết và sự giải thoát nữa vì với cô giờ đây sống hay chết đều như nhau. Cụm từ “quen khổ rồi” thật xót xa, đau đớn. Đó là biẻu hiện của sự chai sạn, vô cảm của Mị với chính bản thân.

- Nhận thức của Mị cũng bị tác động mạnh mẽ khi cô luôn sống với suy nghĩ “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị là người, một con người mà giờ đây cô không nhận ra điều đó, cô nghĩ mình là con trâu, con ngưa, con ngựa thì chỉ biết làm việc, ngựa biết ăn cỏ. Hình ảnh so sánh phũ phàng nhưng chính xác, từ trâu ngựa được lặp lại nhiều lần cho thấy ý niệm thân phận trâu ngựa đã ăn sâu vào tiềm thức của Mị.

- Mị bị biến thành công cụ lao động, bị vắt kiệt sức lao động “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa... tước thành sợi" => tác giả sử dụng phép liệt kê hàng loạt công việc “hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung ngô" kết hợp cấu trúc câu văn trùng điệp “nhớ đi nhớ lại” “giống nhau, tiếp nhau" “mỗi năm mỗi mùa” “làm đi làm lại” “giặt đay xe đay”, trong một câu văn dài để nhấn mạnh những công việc chồng chất cao ngất như núi, dài dằng dặc tựa miền biển xa mà Mị phải đối diện. Đã vậy, chúng bóc lột tàn tệ không cho Mị nghỉ tay dù làm bất cứ việc gì cũng cầm bó đay tước thành sợi. Nếu như con ngựa con trâu còn được nghỉ ngơi nhai cỏ gãi chân, còn Mị thì phải vùi đầu vào việc. Nếu như cỗ máy còn có lúc nghỉ ngơi, còn đàn bà con gái nhà thống lí thì làm quần quật cả ngày lẫn đêm

- Mị bị giam hãm trong một căn buồng có lỗ cửa sổ vuông bé bằng bàn tay. Căn buồng giống như ngục thất tinh thần giam hãm tuổi thanh xuân của Mị, cô như một tù nhân, một người tù khổ sai, một tù nhân với bản án chung thân ở chốn địa ngục trần gian này. Ở trong căn buồng ấy, Mị như con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh so sánh lột tả được hết dáng điệu, tâm hồn và tính cách của Mị. Đồng thời, Mị cũng mất cả ý niệm về thời gian, mất cảm giác về cuộc sống “không biết sương hay nắng” nghĩa là không biết sáng sớm hay trưa hoặc chiều tối. Đó giống như lời than thân trong vô vàn lời ca than thân xưa nay khiến người đọc day dứt không nguôi về thân phận con người.

* Về nghệ thuât:

+ Nghệ thuật trần thuật linh hoạt: kể đan xen tả;

+ Ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu tính tạo hình, biểu cảm.

+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc...

* Đánh giá:

- Đoạn trích đã miêu tả rất chân thật cuộc sống của Mị trong nhà thống lí. Trang văn như một thước phim tư liệu quý báu giúp người đọc hiểu hơn nỗi đau của người dân miền núi dưới chế độ cũ. Qua đó, Tô Hoài không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức, bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật đau xót: dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời; họ bị hủy diệt ý thức sống của con người.

- Đoạn trích thể hiện tài năng, nghê thuật kể chuyện, phân tích tâm lí nhân vật, dựng cảnh... của Tô Hoài.

 * Nhận xét về số phận người phụ nữ miền núi cao Tây Bắc được nhà văn miêu tả thông qua nhân vật Mị:

- Tô Hoài đã miêu tả thành công cái khô cực cùng kiệt của số phận người phụ nữ Mông trên núi cao Tây Bắc những năm trước cách mạng. Mê tín và thần quyền đã trói buộc cuộc đời họ trong những cuộc hôn nhân và biến họ trở thành những công cụ lao động cả đời vất vả, khổ nhục phục vụ nhà chồng.

- Số phận người phụ nữ miền núi cao được nhà văn miêu tả thông qua nhân vật Mị trong đoạn trích là sự miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi. Qua đó, nhà văn phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thông trị ở miền núi, đồng thời thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau thương của họ, từ đó khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Tất cả cho thấy tấm lòng nhân đạo sâu sắc cùng tình cảm đặc biệt trân quý nhà văn dành cho người phụ nữ Tây Bắc.

Câu trả lời này có hữu ích không?

0

CÂU HỎI HOT CÙNG CHỦ ĐỀ

Câu 1:

Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ sau:

Những ngọn khỏi trẻ chăn trâu đốt rạ trên cánh đồng sau vụ gặt

Thở vào ta hương vị tháng Mười

Sau mỗi gốc rạ khô tiếng gió ngân lên thổi qua những bẹ lá tướp

Ta nghe có người nấp sau đó gọi ta, và ta đi, ta đi...

Ta đi qua tháng Mười, ta đi qua tiếng gọi buổi chiều của mẹ

Xem đáp án » 13/06/2024 74

Câu 2:

Anh/ chị hiểu như thế nào về hình ảnh “chú bê” được nhắc tới trong văn bản?

Xem đáp án » 13/06/2024 63

Câu 3:

Thông điệp ý nghĩa nhất với anh/ chị từ văn bản trên là gì? Hãy lý giải.

Xem đáp án » 13/06/2024 41

Câu 4:

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của bản thân về điều cần làm để không đánh mất hi vọng.

Xem đáp án » 13/06/2024 33

Câu 5:

Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.

Xem đáp án » 13/06/2024 32

Câu hỏi mới nhất

Xem thêm »
Xem thêm »