Để nghiên cứu thành phần hoá học của một loại cây thuốc người ta làm như sau: Ngâm mẫu cây trong dung môi thích hợp (thường là ethanol) một thời gian, sau đó gạn lấy chất lỏng. Đun sôi hỗn hợp để thu hồi bớt dung môi, được hỗn hợp sền sệt gọi là cao tổng. Cho cao tổng vào cột sắc kí, sau đó đổ dung môi thích hợp vào trên lớp cao tổng. Dùng các lọ nhỏ hứng lấy các phân đoạn chất lỏng chảy ra khỏi cột sắc kí, sau đó đem xác định chất có trong mỗi phân đoạn. Trong quá trình trên đã áp dụng mấy phương pháp để tách và tinh chế chất?
3. Đó là: ngâm chiết; chưng cất, sắc kí.
Chưng cất lôi cuốn hơi nước cây Hương nhu thu được hỗn hợp tinh dầu với nước. Cho hỗn hợp này tác dụng với dung dịch NaOH dư, loại bỏ phần không tan, sau đó acid hoá dung dịch bằng acid HCl thu được hỗn hợp chứa chất lỏng X nặng hơn nước. Loại bỏ nước để thu lấy X là chất có mùi thơm dịu, được sử dụng nhiều trong y học. Kết quả phân tích nguyên tố trong phân tử X như sau: %C = 73,17%;
%H = 7,32%; còn lại là oxygen. Từ phổ khối lượng, phân tử khối của X nhỏ hơn 200. Công thức phân tử của X là
Hydrocarbon X được dùng làm chất chuẩn để đánh giá chất lượng của nhiên liệu hoá thạch (xăng, dầu). Cho phổ khối lượng (MS) và phần trăm khối lượng các nguyên tố trong phân tử của chất X trong hình dưới đây. Công thức phân tử của X là
c. Xăng, dầu là các phân đoạn chưng cất dầu mỏ gồm các hydrocarbon có nhiệt độ sôi gần nhau, được sử dụng làm nhiên liệu động cơ.
a. Có thể tách riêng được acetic acid (t°s = 118 °C), ethanol (t°s = 78,3 °C) và ethyl acetate (t°s = 77,1 °C) ra khỏi hỗn hợp ester hoá bằng phương pháp chưng cất.
Hai chất X và Y là đồng phân cấu tạo của nhau và đều có mạch carbon no, không phân nhánh. Phân tích nguyên tố trong phân tử X cho kết quả: %C =66,67%; %H = 11,11%; còn lại là oxygen. Từ phổ khối lượng, xác định được phân tử khối của X bằng 72. Phát biểu nào sau đây là không đúng về X và Y?
b. Oxi hoá không hoàn toàn hỗn hợp gồm o-xylene và p-xylene bằng dung dịch acid HNO3 thu được hỗn hợp benzene-1,2-dicarboxylic acid (độ tan 6 g L-1 nước ở 25 °C) và benzene-1,4-dicarboxylic acid (độ tan 0,065 g L-1 nước ở 25 °C). Tách 2 acid này khỏi nhau bằng phương pháp kết tinh.
d. Các chất methane (CH4), glucose (C6H12O6), saccharose (C12H22O11), glycine (C2H5NO2) và sodium hydrogencarbonate (NaHCO3) đều là chất hữu cơ.
d. Để tách tinh dầu chanh, bưởi, hồi, quế từ các cây, quả tương ứng, người ta thường sử dụng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước.
Sự cố tràn dầu trên sông, biển gây thiệt hại rất lớn về kinh tế và môi trường. Để thu hồi dầu tràn, người ta dùng hệ thống phao để gom dầu tràn vào một khu vực, sau đó hút vào các bồn lớn trên tàu. Để thu được dầu, người ta li tâm để tách hỗn hợp lỏng thành lớp nước (ở dưới) và lớp dầu (ở trên). Mở van xả để loại bỏ nước phía dưới, thu được lớp dầu. Phát biểu nào sau đây là không đúng?
Hợp chất X có công thức phân tử C3H6O. Trên phổ khối lượng của X có các tín hiệu dao động hoá trị tại khoảng tần số 1 740 – 1 670 cm-1. Phát biểu nào sau đây là không đúng về X?
Cho các chất có công thức cấu tạo sau: HO–CH2CH(OH)CHO (1);
CH3CH2COOCH3 (2); HO-CH2CH=CH-CH2OH (3);
CH3COOCH=CH2 (4); CH3CH=CHCOOH (5);
HCOOCH2CH2CH3 (6); HO-CH2CH2CH2CH=O (7).
Cặp chất nào sau đây không phải là đồng phân của nhau?
Vanillin có thành phần chính là chiết xuất hạt vani và được tìm thấy trong tự nhiên ở vỏ quả vani Planifolia. Mùi thơm ngọt ngào của nó có thể giúp chúng ta cảm thấy bình tĩnh và thư giãn. Nó được dùng làm hương liệu trong thực phẩm. Kết quả phân tích nguyên tố trong phân tử vanillin cho thấy phần trăm khối lượng carbon, hydrogen lần lượt bằng 63,16% và 5,26 %, còn lại là oxygen. Từ phổ khối lượng, xác định được phân tử khối của vanillin bằng 152. Công thức phân tử của vanillin là