II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu và phi hư cấu trong văn bản truyện kí sau:
Mấy ngày nay, chị Quyên không có giờ nghỉ. Nghe tin vợ anh Nguyễn Văn Trỗi tới dự Đại hội Phụ nữ miền Nam, đại biểu các khu, các tỉnh đều tới thăm hỏi. Chị Quyên đành hẹn tôi sau mỗi buổi họp tối ở hội trường về, chị sẽ tranh thủ kể từng đoạn, những lần cuối cùng chị đã gặp anh, đã được sống bên anh trong các trại giam và khám tử hình.
[...]
Vào khoảng chín giờ sáng, bỗng nhiên tôi thấy ập vào nhà bảy tám thằng cảnh sát, giải theo một người bị còng tay ra sau lưng. Thoạt đầu, tôi vẫn chưa tin là anh Trỗi. Nhưng vừa thoảng thấy tôi, anh nói ngay, nói to: “Quyên, anh bị bắt”.
Tôi đứng sững sờ nhìn anh đi thẳng tới trước mặt tôi. Chỉ có qua một đêm, thân hình anh thay đổi hẳn: bộ quần áo xanh của anh bê bết những bùn máu, gần như đổi sang màu khác, mặt anh hốc hác, bầm tím, đầu tóc rối tung. Chúng đẩy anh ngồi xuống giường. [...] Mấy tên cảnh sát đứng quanh giường anh bực tức nhìn nhau. Chúng động đậy chân tay muốn nổi khùng. Riêng tên chủ sự vẫn nhỏ nhẹ:
- Anh nên nghĩ đến người vợ trẻ và đẹp của anh. Anh nên thương cô ấy, đừng nên cưới người ta ít ngày, bây giờ bỏ mặc đời người ta dang dở.
-Từ năm ngày nay tôi bị bắt, các ông luôn luôn mang chuyện tôi mới cưới vợ ra để dụ dỗ. Các ông mang hình vợ chồng tôi chụp hôm cưới vào, tán tỉnh hạnh phúc này nọ, định làm cho tôi cam tâm vì vợ mà quên mất Tổ quốc. Các ông làm việc đó hoàn toàn không có kết quả đâu. Còn thằng Mỹ thì không ai có hạnh phúc nổi cả.
[...]
Tối nay chị Quyên không còn chăm chú kể chuyện với tôi được nữa. Chốc chốc chị lại nhìn đồng hồ. Ở gian nhà bên có tiếng một chị vừa gọi sang: “Quyên ơi, sắp đến giờ rồi đấy!”.
Ra cả mấy dãy nhà quanh đây đều biết đêm qua đài Hà Nội đã báo tin: nay buổi tám giờ rưỡi có truyền thanh toàn bản thuyết minh cuốn phim “Nguyễn Văn Trỗi sống mãi”.
Ngay từ phút đầu, mọi người đã cảm thấy như chính mình đang được xem cuốn phim đó, đang theo chân anh tới pháp trường. Tiếng người thuyết minh lúc tha thiết nghẹn ngào, lúc căm thù tột độ dẫn dắt người nghe qua dần từng cảnh: anh đang nói trước các nhà báo, anh dừng lại nhìn mảnh đất cuối cùng trồng mấy luống rau xanh, anh giật mảnh vải định che mắt anh,...
Chị U., một giáo sư, đã nói thêm một số tài liệu quanh cái chết của anh:
“ Tới phút chót của đời anh, những người có mặt tại pháp trường đều rất kinh ngạc. Súng đã nổ rồi, một loạt đạn đã bắn vào ngực anh nhưng từ phía anh vẫn còn vang lên những tiếng hô: “Việt Nam muôn năm!”.
Chinh một số nhà báo đã không cầm nổi nước mắt. Họ không thể tưởng tượng một người trước cái chết lại bình thản đến như vậy, lại yêu mến đất nước mình đến như vậy. Giật băng đen bịt mắt ra, anh nói: “Không, phải để tôi nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi”. Bao nhiêu năm bị bọn phản động đầu độc “Việt cộng vô Tổ quốc”, một số nhà báo lúc này đã nhìn ra sự thật: Không ai yêu Tổ quốc Việt Nam bằng người cộng sản, họ đã yêu đất nước quê hương cho tới phút cuối cùng của đời họ.”
(Trần Đình Vân[1]', Sống như Anh[2], NXB Giáo dục, 1978, tr.25-59)
[1] Trần Đình Vân (1926 – 2024), nhà báo Thái Duy, tên thật là Trần Duy Tấn. Quê Bắc Giang.
[2] Truyện kí “Sống như Anh” được NXB Văn học in lần đầu năm 1965, đã xuất bản hàng triệu bản ở nhiều nước trên thế giới. Truyện viết về cuộc đời ngắn ngủi và oanh liệt của liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, được ghi lại qua lời kể của chị Phan Thị Quyên (vợ anh Trỗi).
a. Mở đoạn: Nêu vấn đề nghị luận: Sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu và phi hư cấu trong văn bản Sống như Anh đã đem lại tác dụng nghệ thuật rõ rệt.
b) Phần triển khai: Làm rõ tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu và phi hư cấu trong văn bản:
(1) Yếu tố phi hư cấu trong truyện kí thể hiện ở các sự kiện, chi tiết kể về người thật, việc thật. Phi hư cấu là tôn trọng sự thật đời sống, đảm bảo tính xác thực của sự việc được kể. Trong đoạn trích, yếu tố phi hư cấu là sự việc anh Nguyễn Văn Trỗi bị giặc bắt khi làm nhiệm vụ cách mạng, là các chi tiết anh nói, anh làm trong những ngày bị giam cầm, là sự việc anh bị giặc xử bắn. Một sự thật khác nữa được nói đến trong đoạn trích là chuyện chị Quyên, vợ anh Trỗi, dự Đại hội Phụ nữ miền Nam và kể chuyện anh Trỗi cho tác giả Trần Đình Vân ghi,... Yếu tố hư cấu là sự sáng tạo của người viết khi xử lí, tổ chức tư liệu về nhân vật, sự kiện trong truyện kí. Việc tác giả truyện kí lựa chọn điểm nhìn, giọng điệu trần thuật, sử dụng ngôn từ nghệ thuật để tái hiện nhịp điệu sự việc, tâm trạng, cảm xúc của nhân vật; qua đó bộc lộ thái độ, quan điểm của người viết cũng là yếu tố hư cấu của truyện. Trong đoạn trích này, yếu tố hư cấu là những đoạn miêu tả chi tiết lời nói, hành động của anh Trỗi, cảm nhận về tâm sự, cảm xúc của anh dưới góc nhìn và ngôn ngữ của chị Quyên. Đặc biệt, tác giả trực tiếp kể lại đoạn thể hiện tâm trạng, cảm xúc của mọi người lắng nghe phần thuyết minh phim về anh Nguyễn Văn Trỗi,... Đây là ý đồ nghệ thuật, sự sáng tạo riêng của tác giả Trần Đình Vân. (2) Tác dụng: + Nhờ có sự xuất hiện đồng thời của yếu tố phi hư cấu và hư cấu trong truyện, câu chuyện về anh Nguyễn Văn Trỗi vừa chân thật, gần gũi, sinh động, vừa gợi những liên tưởng, tưởng tượng, tạo ấn tượng riêng cho mỗi người đọc; + Cách triển khai truyện kể bằng cách vừa ghi theo lời kể phi hư cấu của người trong cuộc, vừa thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp đa chiều của nhân vật anh Nguyễn Văn Trỗi: vừa đời thường, gần gũi, vừa đẹp đẽ, lung linh, mang tầm vóc anh hùng, rực sáng vẻ đẹp lí tưởng của một thanh niên ưu tú trong thời kì cách mạng; + Tác giả Trần Đình Vân đã thể hiện sự yêu mến, thông cảm, xót xa chân thành đối với nhân vật anh Nguyễn Văn Trỗi, càng căm thù bọn giặc đê hèn, tàn ác, càng ngưỡng mộ, tôn vinh, ngợi ca người anh hùng. Sự hoà quyện nhuần nhuyễn giữa yếu tố phi hư cấu và hư cấu giúp người đọc vừa hiểu thêm về lịch sử dân tộc nhờ các chi tiết cụ thể, đích xác về con người và sự kiện lịch sử liên quan đến anh Nguyễn Văn Trỗi, vừa được lôi cuốn, hấp dẫn bởi hình tượng văn học được xây dựng bằng nghệ thuật ngôn từ qua cách kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ của tác giả Trần Đình Vân.
c. Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề nghị luận.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trả lời câu hỏi: Người trẻ làm gì để chứng tỏ mình đang sống trong cuộc đời?
Nêu một ví dụ về ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong văn bản.
Anh/ Chị tâm đắc nhất với triết lí nhân sinh nào của văn bản? Vì sao?