Tác dụng của biện pháp điệp ngữ “Ta còn em”:
(1) Khơi gợi và nhấn mạnh những kí ức thân thương, sâu thẳm, vô cùng gắn bó của Hà Nội đang được thức dậy trong tâm hồn nhà thơ. Theo điệp ngữ “Ta còn em” là những hình ảnh đẹp vô ngần, xưa cũ, bình yên, lãng mạn của thiên nhiên, con người, tâm hồn Hà Nội sống dậy: mùi hương hoa hoàng lan, hoa sữa, mùi sen nở muộn thoảng ngọn gió Nghi Tàm, hương phố cũ, hương mùa thu tím ngát; sắc hoa đào phai, chiếc lá bàng đầu tiên nhuộm đỏ, những chùm hoa tím, sắc hồng đôi mả người thiếu nữ, sắc xanh của trời Hà Nội mùa thu; âm thanh tiếng giày gõ nhịp bước chân quen trên đường khuya, tiếng cọt kẹt của thang gác thời gian, tiếng dương cầm trong khung nhà đổ,... (2) Nhấn mạnh nỗi đau tiếc khôn cùng của tâm hồn nhà thơ trước những mất mát, tan hoang của Hà Nội trong thực tại. Điệp đi nhấn lại “Ta còn em” như xác nhận điều đau đớn, dằn lòng: Ta – đã – mất Đồng thời, trong nỗi đau còn – mất đó, phép điệp gửi gắm niềm mong ước, sự tha thiết tìm về kí ức như một niềm an ủi, nương tựa cho tâm hồn nhà thơ. Đó cũng là dòng cảm xúc tuôn chảy từ tình yêu sâu nặng vô bờ dành cho Hà Nội. (3) Tạo nên nhạc điệu da diết, khắc khoải và kết nối hình ảnh, mạch cảm xúc của văn bản.
“Đối diện như thế nào với sai lầm?” là một trong những câu hỏi mà cuộc sống luôn đặt ra cho mỗi chúng ta.
Anh/ Chị trả lời như thế nào trước câu hỏi ấy? Hãy viết bài văn nghị luận khoảng 600 chữ) làm rõ ý kiến của anh/ chị.
Liệt kê những hình ảnh của Hà Nội trong quá khứ và hình ảnh của Hà Nội trong hiện tại (tháng 12/ 1972) được thể hiện ở các khổ thơ 1, 2 và 3 của văn bản.
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật bi kịch được thể hiện qua nhân vật Vũ Như Tô trong văn bản sau:
Lớp III
Thêm Vũ Như Tô
Vũ Như Tô (có vẻ mệt, người hốc hác, lẩm bẩm): Bao nhiêu người chết vì ta. Khốn nạn... Nhưng sao ta vội nản. Nhu nhược thì sao dựng nổi cái đài này? Thương nhau ta để trong lòng. [...]. Nhưng không thẳng tay không xong. Xây cái Cửu Trùng Đài này cũng khó như đánh trận mỗi người chúng ta là một tên lính, phải đồng lao cộng tác, không được thoái chi, không được trốn tránh. Tôi tha không khó gì, nhưng thế là dung túng cho bọn thợ trốn đi, mà thợ trốn đi thì đài xây sao được. Khi xưa vua Thục đắp thành Cổ Loa có con kê tinh cứ gây làm đổ thành, phải trừ kê tinh mới đắp nổi. Đây cũng thế, phải trừ hết cả những kẻ hèn, thấy khó đã nản.
Phó Bảo: Vua Thục đắp thành để giữ nước, còn ta xây thành để cho vua chơi. Vũ Như Tô: Sao lại để vua chơi, đây là ta xây cho cả nước.
Phó Bảo: Cho cả nước, nhưng chỉ ít người được đến đây, họ nhà vua, các quan, thế là hết, dân được lợi gì?
Như Tô: Chú quên hết lời anh em ta kí kết cùng nhau rồi. Sao chú đã thay đổi thế? Thảo nào mà tôi thấy... Ta xây một cái đài vĩ đại, làm vinh dự cho non sông. Đến làm một cái nhà còn tốn tiền, tốn lực huống chi là một cái đài to như núi, bền như trăng sao.
(Trích: Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô,
NXB Sân khấu, Hà Nội, 2006, tr.84-89).