Chỉ ra mối liên hệ giữa hình ảnh “những lớp người hai mươi tuổi” với hình ảnh “mây đầu ô”.
(1) Hình ảnh “những lớp người hai mươi tuổi” và “mây đầu ô” trong bài thơ cùng có sự gặp gỡ, đồng điệu về tâm hồn phóng khoáng, sự khao khát vượt lên những giới hạn gò bó, chật chội và khát vọng vươn đến một cuộc sống giàu ý nghĩa, sẵn sàng cống hiến. “Mây đầu ô” “lang thang”, cảm nhận sự bức bối, chật chội của “góc phố phường”, “hẹn những chân trời xa lạ”, “lướt nhanh qua mái ngói ba tầng” mà cảm nhận một “trời xanh lộng thế” thênh thang mở ra thoả sức vẫy vùng. Còn “những lớp người hai mươi tuổi”, họ cũng “hẹn những chân trời xa lạ” như “mây đầu ô”. Họ “cháy hết mình” ở những vùng trung du bóng cọ với “Ca nước đập vỏ bình toong/ Khăn mặt thấm mồ hôi Bụi đỏ Bụi vàng”. Họ có mặt ở những “triền cao” “tay sém ngấn mặt trời”. Họ là những áng “mây đầu ô” ở “trời công trường xa tít tắp”. Họ là những “áng mây đầu ô” ở nơi đầu sóng ngọn gió – "Áo ngực xanh yếm biển Bay bay dải mũ Hải quân”. Cả “mây đầu ổ” và “những lớp người hai mươi tuổi” đều khao khát chinh phục những chân trời của ước vọng cháy hết mình và dâng hiến – đều là những tâm hồn trẻ tràn đầy khát vọng.
(2) Cả hại hình ảnh “mây đầu ô” và “những lớp người hai mươi tuổi” đều được thể hiện bằng cảm hứng khẳng định nhiệt thành, sôi nổi của tác giả và qua đó, bộc lộ khát vọng đẹp đẽ, mãnh liệt, tràn đầy sức trẻ của tâm hồn nhà thơ.
Người trẻ ơi, bạn có nên bước ra khỏi “vùng an toàn?”.
Anh/ Chị trả lời như thế nào trước câu hỏi trên? Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) làm rõ ý kiến của anh/ chị.
Câu hỏi “Nhưng ta có gì/ Tự thấy những ngày không tẻ?” trong bài thơ gửi đến anh/ chị thông điệp gì?
Vẻ đẹp tâm hồn tác giả Quang Dũng được thể hiện như thế nào trong bài thơ?
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp của nhân vật Thị Phương được thể hiện trong văn bản sau:
Thị Phương (hát tiếp):
Người chồng tôi tên gọi Trương Viên.
Vua sai dẹp giặc nước Xiêm khơi chừng
Bởi vì đậu chếch nón ả Hằng
Thờ chồng chực tiết khăng khăng chẳng rời
Bởi vì đâu binh lửa bời bời
Xa miền quê quán, ngụ nơi lâm tuyền
Một mình tôi nuôi mẹ truân chuyên
Quyết liều phận bạc chẳng dám quên ngãi chàng
Gặp những loài ác thú hổ lang
Người rắp làm hại, khẩn vang lại lành
Trở ra vệ miếu thần linh qua
Thần đòi khoét mắt lòng thành tôi kính dâng
Vậy nên mù mịt tối tăm
Nàng tiên dạy hát, kiếm ăn qua tháng ngày
Sự tình này trời đất có thấu hay
Chàng Trương Viên có biết nông nỗi này cho chăng?
Trương Viên:
Nghe tiếng đàn cùng tiếng hát Chuyển động tâm thần
[...] Anh khá khen em mười tám năm nay chẳng có đơn sai
Lòng thương em nhớ mẹ ngậm ngùi.
Đây, ngọc kim quyết giao em nhận tích
(Thị Phương cầm ngọc, ngọc nhẩy lên mắt, mắt sáng trở lại)
Thị Phương:
Quả lòng trời đưa lại
Ngọc nhảy vào, mắt được phong quang
Mẹ ơi, giờ con trông được rõ ràng
Chồng con đây đã tỏ
Mụ:
Mẹ mừng con đã yên lành như cũ
Lại thêm tình mẫu tử đoàn viên
Trời có đâu nỡ phụ người hiền
Thế mới biết bĩ rồi lại thái[1] .
(Trích Trương Viên[2]’, in trong Tuyển tập Chèo cổ, Hà Văn Cầu sưu tầm và chú thích, NXB Sân khấu, Hà Nội, 1999, tr.160-162)
[1] Bĩ: thời vận, hoàn cảnh rủi ro; thái: thời vận, hoàn cảnh may mắn, thuận lợi.
[2] Trương Viên là một trong những vở chèo cổ nổi tiếng. Thị Phương, con gái quan Tể tướng đã hồi hưu được cha đồng ý cho kết duyễn với Trương Viên và cho đôi ngọc lưu li làm của hồi môn. Giữa lúc Trương Viên đang dùi mài kinh sử thì chàng nhận được chiếu đòi đi dẹp giặc. Thị Phương đã dắt mẹ chồng lưu lạc chạy giặc, trải qua nhiều thử thách trong suốt 18 năm. Thắng trận, Trương Viên về quê tìm mẹ và vợ nhưng không gặp. Tình cờ chàng gặp hai mẹ con bà hát xẩm và gọi vào nghe hát.