II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Bàn về tự học tác giả Nguyễn Duy Cần từng nói: “Học đâu phải là công việc của một thời kì cắp sách đến trường (thập niên đăng hoả), mà thực ra là công phu thực hiện suốt một đời người”.
Anh/ Chị có đồng ý với quan điểm đó không, vì sao? Hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) làm rõ một lí do để bảo vệ ý kiến của anh/ chị.
a. Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Học tập là công việc suốt đời – “Học đâu phải là công việc của một thời kì cắp sách đến trường (thập niên đăng hoả), mà thực ra là công phu thực hiện suốt một đời người.
b. Thân đoạn: Làm rõ một lí do để bảo vệ quan điểm của bản thân
(1) Giải thích: Việc học không chỉ là công việc được thực hiện ở một giai đoạn nhất định khi ở tuổi đến trường (cách nói hình ảnh là mười năm đèn sách); việc học cần được xác định là rất công phu, bền bỉ, cần được thực hiện trong cả cuộc đời (học suốt đời/ “học, học nữa, học mãi”). (2) Nêu và làm rõ được một lí do để bảo vệ quan điểm. Ví dụ có thể chọn một trong các lí do gợi ý sau: + Để bản thân không bị tụt hậu trước sự bùng nổ mạnh mẽ của lượng tri thức khoa học mà con người phát minh ra; + Để bản thân tiến bộ hơn mỗi ngày nhờ việc cập nhật tri thức, mở rộng hiểu biết, chúng ta không thể tiến bộ hơn nếu chỉ dựa vào những gì đã biết; + Để góp phần vào sự tiến bộ của xã hội; xã hội được tạo nên từ những cá nhân, khi mỗi cá nhân tích cực học tập để phát triển bản thân sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của cả xã hội. Nêu ngắn gọn một vài bằng chứng để làm rõ lí lẽ. (3) Bình luận: Học suốt đời không nên hiểu chỉ hướng tới đích đến là kiến thức và bằng cấp mà điều quan trọng là vận dụng những kiến thức ấy trong cuộc sống (học trong nhà trường, học ở ngoài đời, mọi lúc, mọi nơi); tất cả mọi người – kể cả những người lao động giản đơn cũng đều cần học; học để hành; học và tự học suốt đời không chỉ là yêu cầu mà còn là quyền lợi của con người; việc tự học suốt đời vì vậy góp phần thúc đẩy quyền công dân, phát triển năng lực hoà nhập của mỗi cá nhân trong thời kì “thế giới phẳng” toàn cầu...
c. Kết đoạn: Cần có nhận thức và hành động đúng đắn trong việc học; tự giác tích cực học ở mọi nơi, mọi lúc,...
Viết bài nghị luận văn học (khoảng 600 chữ) phân tích nhân vật chàng Vương trong truyện truyền kì dưới đây.
ĐẠO SĨ NÚI LÃO
Tóm tắt phần trước: Có chàng họ Vương, tuổi trẻ mộ đạo, nghe nói trên núi Lao Sơn (ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) có vị tiên liền tìm đến thì gặp một vị đạo sĩ tóc trắng rủ xuống tận cổ, tinh thần sắc sảo. Vương khấu đầu làm lễ, bắt chuyện, thấy đạo lí huyền diệu, bèn tôn làm thầy. Đạo sĩ nhìn Vương băn khoăn cho rằng sợ anh ta sức yếu, không chịu nổi khó nhọc để tu luyện nhưng Vương tỏ ý rất sẵn sàng.
Hơn một tháng ở lại trên núi, ngày nào đạo sĩ cũng gọi Vương dậy, đưa cho chiếc rìu, bảo theo lũ học trò đi hái củi. Tay chân Vương phỏng mọng, đau không chịu nổi, có ý muốn về. Thế nhưng khi được chứng kiến phép biến hoá tài tình của đạo sĩ trong tiệc rượu thì Vương cố nán ở lại để mong học được từ thầy một điều huyền diệu nào đó.
Lại qua một tháng nữa, khổ không kham, mà đạo sĩ vẫn chưa truyền cho một phép gì. Sốt ruột quá, bèn lên cáo từ, xin về
- Đệ tử qua mấy trăm dặm đường tới xin học thầy; dầu chẳng học được cái đạo trường sinh bất tử, cũng mong thầy dạy cho chút gì gọi là hả chút lòng cầu học. Thế mà qua hai, ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về. Hồi ở nhà, đệ tử chưa bao giờ khổ như thế.
Đạo sĩ cười, bảo:
-Ta đã nói trước là anh không chịu nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho người dẫn anh về.
Vương lại nài nỉ:
-Đệ tử làm lụng đã nhiều, xin thầy dạy cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn lội tới đây.
Đạo sĩ hỏi muốn cầu thuật gì, Vương nói:
- Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn nổi, chỉ xin một phép ấy cũng đủ lắm.
Đạo sĩ cười, nhận lời. Bèn dạy cho phép bắt quyết[1], bảo miệng đọc mấy câu thần chú, rồi hô: “Vào đi! Vào đi!”. Vương đối mặt với bức tường nhưng ngần ngừ không dám vào. Đạo sĩ lại hô rằng:
-Cứ vào đại thử coi!
Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường bị vấp. Đạo sĩ bảo củi đầu, vào thật nhanh, đừng rụt rè. Vương bước xa bức tường mấy bước, đọc câu thần chủ, bước nhanh tới, cảm thấy như chỗ trống không. Quay nhìn lại thì đã thấy mình ở bên kia tường. Mừng quả, vào lạy tạ xin về.
Đạo sĩ nói:
-Về nhà phải giữ gìn đứng đắn; không thể thì phép không nghiệm nữa đâu. Nói rồi, cấp tiền cho Vương ăn đường mà về.
Đến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đến đâu cũng không ngăn nổi. Vợ không tin. Vương theo như cách đạo sĩ đã dạy, cách tường mấy bước, củi đầu chạy ù vào. Đầu đập tường cứng ngã lăn đùng. Vợ nâng dậy, nhìn xem, thấy trản sưng bươu bằng quả trứng. Vợ chế giễu mãi. Vương vừa thẹn vừa tức, chửi mãi lão đạo sĩ bất lương.
(Nguyễn Đức Lân dịch, Liêu Trai chí dị,
NXB Văn học, Hà Nội, 2006, tr.20-23)