Đề kiểm tra giữa kì 2 Tiếng Việt lớp 4 Cánh Diều có đáp án (Đề 4)
-
105 lượt thi
-
8 câu hỏi
-
45 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Vận động viên Giôn Xti-phen Ác-va-ri đã về đích trong tình huống đặc biệt như thế nào?
C. Anh vẫn tiếp tục chạy về đích khi cuộc thi và lễ trao giải đã kết thúc từ lâu
Câu 2:
Tại sao anh phải hoàn thành cuộc đua như vậy?
D. Vì anh muốn làm tròn trách nhiệm của một vận động viên đối với đất nước mình: tham gia và hoàn thành cuộc đua.
Câu 3:
Câu chuyện muốn nói với em điều gì?
A. Hãy nỗ lực hết mình và có trách nhiệm hoàn thành trọn vẹn công việc của mình.
Câu 4:
Em hãy cho biết công dụng của dấu ngoặc đơn trong đoạn trích sau:
Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
- Dấu ngoặc đơn trong đoạn trên dùng để đánh dấu phần chú thích trong câu.
Câu 5:
Dùng dấu “/” để ngăn cách các thành phần trong câu và ghi “CN” dưới chủ ngữ, “VN” dưới vị ngữ, “TN” dưới trạng ngữ:
a) Cuối tuần trước, tôi được thả diều cùng anh hai và đám bạn của anh ấy.
b) Con chim gáy hiền lành, béo núc.
a) Cuối tuần trước/, / tôi / được thả diều cùng anh hai và đám bạn của anh ấy.
TN CN VN
b) Con chim / gáy hiền lành, béo núc.
CN VN
Câu 6:
Em hãy chỉ ra các tính từ có trong đoạn văn sau:
Con chim gáy hiền lành, béo núc. Đôi mắt nâu trầm ngâm ngơ ngác nhìn xa, cái bụng mịn mượt, cổ yếm quàng chiếc tạp dề công nhân đầy hạt cườm lấp lánh.
(Theo Tô Hoài)
- Các tính từ: hiền lành, béo núc, nâu, trầm ngâm, ngơ ngác, xa, mịn mượt, đầy, lấp lánh.
Câu 7:
Nghe – viết
MÓN QUÀ
(Trích)
Vậy là sinh nhật Vy, Chi không có quyển từ điển để tặng bạn như dự kiến. Nhưng mà không sao, Chi sẽ làm cho bạn cái móc khóa thật đặc biệt, một cái móc khóa có hình quyển từ điển nhỏ xíu thật dễ thương.
Trần Tùng Chinh
Chính tả
- Viết đúng kiểu chữ thường, cỡ nhỏ (0,5 điểm):
0,5 điểm: viết đúng kiểu chữ thường và cỡ nhỏ.
0,25 điểm: viết chưa đúng kiểu chữ hoặc không đúng cỡ chữ nhỏ.
- Viết đúng chính tả các từ ngữ, dấu câu (3 điểm):
Viết đúng chính tả, đủ, đúng dấu: 3 điểm
2 điểm: nếu có 0 - 4 lỗi;
Tùy từng mức độ sai để trừ dần điểm.
- Trình bày (0,5 điểm):
0,5 điểm: nếu trình bày đúng theo mẫu, chữ viết sạch và rõ ràng.
0,25 điểm: nếu trình bày không theo mẫu hoặc chữ viết không rõ nét, bài tẩy xóa vài chỗ.
Câu 8:
Tập làm văn
Em hãy viết bài văn tả con lợn mà em yêu thích.
Luyện tập
- Trình bày dưới dạng một bài văn, tả con lợn mà em yêu thích, câu văn viết đủ ý, trình bày bài sạch đẹp, rõ ràng: 6 điểm.
- Tùy từng mức độ bài viết trừ dần điểm nếu bài viết không đủ ý, trình bài xấu, không đúng nội dung yêu cầu.
Gợi ý chi tiết:
Mở đầu:
- Giới thiệu về con lợn mà em muốn tả.
Triển khai:
- Tả bao quát: (1) Đó là một chú lợn khoang đã sáu tháng tuổi. (2) Thân hình vừa phải, dài khoảng hơn một mét và nặng khoảng năm mươi ki lô gam.
- Tả chi tiết từng bộ phận: (1) Chú lợn có làn da rất đẹp, với phần bụng trắng và phần khoang đen vắt ngang lưng. (2) Bốn cái chân to, chắc khỏe nâng đỡ cả cơ thể. (3) Các móng chân màu trắng, bóng, khi đi nghe cộc cộc rất đáng yêu. (4) Cái đuôi ngắn, xoăn tít. (5) Phần bụng màu trắng hồng, mấy núm vú nhỏ xíu xíu trông rất ngộ nghĩnh. (6) Cái cổ của chú ngắn ngắn, núng nính những mỡ, lớp mỡ ấy dày, trông như một chiếc khăn quàng qua cổ của chú vậy. (7) Cái đầu lớn, nổi bật là hai chiếc tai như hai cái lá mít màu hồng hồng. (8) Đôi mắt lớn, tròn như hai viên bi luôn lờ đờ như buồn ngủ. (9) Cái mũi to, điểm một ít đốm đen. (10) Miệng rộng và hàm răng chắc khỏe.
- Tả tính tình, hoạt động: (1) Mỗi khi được em cho ăn một thứ gì là cái đuôi lại phe phẩy rối rít tỏ thái độ rất vui vẻ. (2) Khi chú vui, hai tai vẫy liên tục còn khi buồn thì chúng lại rủ xuống trông rất ngộ. (3) Cái mũi ấy mỗi khi bất bình hay muốn ăn lại vang lên tiếng “khịt khịt khịt”. (4) Mỗi khi bố em tắm cho chú, chú nhảy cẫng lên vì vui sướng, rồi đùa nghịch như một đứa trẻ ham nghịch nước.
Kết thúc
- Nêu cảm nghĩ của em về con lợn em yêu thích.
Bài làm tham khảo
Trong tất cả các loài gia súc của nhà mình, em yêu nhất là chú lợn nhà em. Chú ấy trông đáng yêu lắm.
Đó là một chú lợn khoang đã sáu tháng tuổi. Thân hình vừa phải, dài khoảng hơn một mét và nặng khoảng năm mươi ki lô gam. Chú lợn có làn da rất đẹp, với phần bụng trắng và phần khoang đen vắt ngang lưng, theo đúng chuẩn của cha ông ta ngày xưa. Bốn cái chân to, chắc khỏe nâng đỡ cả cơ thể. Các móng chân màu trắng, bóng, khi đi nghe cộc cộc rất đáng yêu. Cái đuôi ngắn, xoăn tít mỗi khi được em cho ăn một thứ gì là lại phe phẩy rối rít tỏ thái độ rất vui vẻ. Cái bụng căng tròn trông như chiếc trống nhỏ. Phần bụng màu trắng hồng, mấy núm vú nhỏ xíu xíu trông rất ngộ nghĩnh. Cái cổ của chú ngắn ngắn, núng nính những mỡ, lớp mỡ ấy dày, trông như một chiếc khăn quàng qua cổ của chú vậy. Cái đầu lớn, nổi bật là hai chiếc tai như hai cái lá mít màu hồng hồng, thi thoảng lại vẫy vẫy. Dường như chúng cũng nghe theo tâm trạng của chú, khi chú vui, chúng vẫy liên tục còn khi buồn thì hai cái tai rủ xuống trông rất ngộ. Đôi mắt lớn, tròn như hai viên bi luôn lờ đờ như buồn ngủ. Cái mũi to, điểm một ít đốm đen làm gương mặt chú có gì đó rất buồn cười. Cái mũi ấy mỗi khi bất bình hay muốn ăn lại vang lên tiếng “khịt khịt khịt”. Miệng rộng và hàm răng chắc khỏe. Mỗi khi bố em tắm cho chú, chú nhảy cẫng lên vì vui sướng, rồi đùa nghịch như một đứa trẻ ham nghịch nước. Nhìn chú như vậy, cả nhà em ai cũng phải phì cười.
Em rất yêu chú lợn của nhà mình, em đã quyết định đặt tên chú là Lu. Em nhất định sẽ chăm sóc chú thật tốt để chú mãi là nguồn vui của cả nhà em.