IMG-LOGO
Trang chủ Lớp 10 Văn Đề thi giữa kì 1 lớp 10 môn Ngữ Văn có đáp án (14 đề)

Đề thi giữa kì 1 lớp 10 môn Ngữ Văn có đáp án (14 đề)

Đề thi giữa kì 1 lớp 10 môn Ngữ Văn có đáp án (Đề 6)

  • 3052 lượt thi

  • 5 câu hỏi

  • 90 phút

Danh sách câu hỏi

Câu 2:

Theo tác giả , hãy sống vì mọi người nhằm để làm gì

Xem đáp án

Theo tác giả , hãy sống vì mọi người nhằm để cuộc sống có ý nghĩa hơn.


Câu 3:

Vì sao tác giả cho rằng : " Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ đến lợi ích của chính bản thân mình " ?

Xem đáp án

Người viết cho rằng: “Hạnh phúc mà bạn nhận được khi cho đi chỉ thật sự đến khi bạn cho đi mà không nghĩ ngợi đến lợi ích của chính bản thân mình” bởi vì đó là sự “cho” xuất phát từ tấm lòng, từ tình yêu thương thực sự, không vụ lợi, không tính toán hơn thiệt.


Câu 4:

Anh / chị hãy rút ra bài học cho bản thân từ văn bản trên.
Xem đáp án

Cuộc sống của mỗi người sẽ trở nên tầm thường nếu chỉ biết nhận mà không biết cho. Vì thế, sống, hãy đừng chỉ biết nhận lấy, mà còn học cách cho đi.


Câu 5:

Tuyết Giang phu tử yêu và trọng nhân cách. Về với thiên nhiên, sống hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt.” (Lã Nhâm Thìn, Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, 2009, tr. 71)

Anh (chị) hãy phân tích bài thơ Nhàn để làm sáng tỏ nhận định trên.

Xem đáp án

1. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống thuận theo tự nhiên: “Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng thế – Cơ cầu tạo hóa mặc tự nhiên”. Nhàn là đốì lập với danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”, giữ cốt cách thanh cao. Nhàn là triết lí, là thái độ sống, là tâm trạng.

– Tuyết Giang Phu Tử yêu và trọng nhân cách, về với thiên nhiên, sống thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên, khoáng đạt. Nhân cách ấy rất thuần hậu và thanh cao. Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như môt lão nông với bữa cơm đạm bạc, với những sinh hoạt dân dã. Nhưng đạm bạc chứ không khắc khổ. Đạm bạc đi với thanh cao.

– Nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ – Người khôn, người đến chôn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ là nơi không người cầu cạnh, nơi tĩnh lại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Người đến chôn lao xao là đến chôn cửa quyền sang trọng, tấp nập nhưng cũng là chốn hoạn lộ nhiều thủ đoạn bon chen, sát phạt.

– Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn, nhà thơ vui, niềm vui thốt lên thành lời: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Niềm vui như hiện lên trong bước đi ung dung, niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ “thanh thản, thoải mái một cách kì lạ. Đau khổ ư? Lo toan ư? Mệt mỏi ư? Trút sạch sành sanh” (Lê Trí Viễn, Đến với tha hay, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.78).

2. – Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự kết hợp giữa trữ tình và triết lí. Trạng Trình đã đem đến cho văn học Việt Nam một phong cách triết gia. Bài thơ Nhàn là cảm hứng nhàn mà cũng là triết lí nhàn.

– Triết lí nhàn thể hiện qua quan niệm của tác giả về dại và khôn. Đó là triết lí sâu sắc mà hóm hỉnh trong cách nói đùa vui ngược nghĩa, dại mà thực chất là khôn còn khôn mà hóa dại. Ớ một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Khôn mà hiểm độc là khôn dại – Dại vốn hiền lành ấy dại khôn” (Thơ Nôm – bài 94). Như vậy thì dại, khôn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là xuất phát từ trí tuệ, triết lí dân gian “Ớ hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

– Triết lí nhàn của nhà thơ là trở về sống hòa hợp với tự nhiên, phủ nhận danh lợi. “Rượu đến cội cây ta sẽ uống – Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Bậc đại ẩn sống Tuyết này tìm đến say chỉ là để tỉnh. Tỉnh để nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Nguyễn Bỉnh Khiêm triết lí với mục đích tự cảnh tỉnh mình nhưng lại có tác dụng cảnh tỉnh người đời.


Bắt đầu thi ngay