(2023) Đề thi thử Ngữ Văn Sở GD Hải Phòng (Lần 1) có đáp án
-
930 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
120 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
NÓI VỚI CON NGÀY TỐT NGHIỆP
Nhớ nhé, chàng trai của papa,
Hôm nay là dòng sông, ngày mai là biển rộng
Nếu dám bước qua đám đông hỗn loạn
Sẽ thấy được chân trời
Không bao giờ được quên ơn ai
Nhưng phải quên ngay điều vừa làm vui người khác
Người thật sự giỏi phải lẫn vào đám đông
Chứ không nổi bần bật như con công sặc sỡ
Nếu đang còn nghèo thì cũng đừng nên sợ
Vì nghèo ở đâu, là giàu ở đó…
Còn định quyết đi theo nghiệp chữ
Đừng bằng lòng làm người trung bình, buồn lắm nhé, con.
(Trần Hữu Việt, Thơ Hữu Việt: Đừng bằng lòng làm người trung bình,
buồn lắm nhé, con!)
Phương pháp: Đọc, tìm ý.
Cách giải:
Theo bài thơ, người cha “nói với con” trong ngày con tốt nghiệp.
Câu 2:
Trong bài thơ, người cha nhắc con “không bao giờ được quên” điều gì và “phải quên ngay” điều gì?
Phương pháp: Đọc, tìm ý.
Cách giải:
Trong bài thơ, người cha nhắc con “không bao giờ được quên ơn ai” và “phải quên ngay điều vừa làm vui người khác”.
Câu 3:
Những câu thơ dưới đây khiến anh/chị hiểu như thế nào về điều người cha muốn nói với con ?
Người thật sự giỏi phải lẫn vào đám đông
Chứ không nổi bần bật như con công sặc sỡ
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Những câu thơ: “Người thật sự giỏi phải lẫn vào đám đông/ Chứ không nổi bần bật như con công sặc sỡ” là lời nhắc của người cha đối với con: người giỏi thật sự là người biết khiêm tốn, khiêm nhường, hòa đồng (“lẫn vào đám đông”), chứ không phải là kẻ chỉ biết khoe khoang, phô diễn vẻ bề ngoài màu mè, hình thức (“như con công sặc sỡ”).
Câu 4:
Anh/chị hãy nhận xét về người cha trong bài thơ?
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Học sinh tự trình bày theo suy nghĩ của bản thân mình, có lý giải.
Gợi ý:
- Nhận xét về người cha: là người có lòng yêu thương con, là người sâu sắc, nhiều trải nghiệm với những lời khuyên đúng đắn, quý giá, kịp thời.
Câu 5:
Từ nội dung bài thơ ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về hành động của tuổi trẻ để đối mặt với những thử thách trong cuộc sống.
Phương pháp: Vận dụng kiến thức đã học về cách làm một đoạn nghị luận xã hội.
Cách giải:
1. Giới thiệu vấn đề:
- Giới thiệu nhận định: Hành động của tuổi trẻ để đối mặt với những thử thách trong cuộc sống.
2. Giải quyết vấn đề
* Giải thích: Thử thách là những tình huống, việc làm khó khăn, gian khổ, đòi hỏi con người có nghị lực, khả năng mới có thể vượt qua.
* Bàn luận :
- Hành động đầu tiên khi tuổi trẻ đối mặt với thử thách là phải dũng cảm. Chúng ta cần phải có can đảm để đối mặt với tất cả các loại khó khăn mà mình gặp phải, bởi không có hoàn cảnh khó khăn nào mà chúng ta không vượt qua được.
- Khi đối mặt với thử thách, tuổi trẻ phải biết kiên trì đến giây phút cuối cùng.
- Tuổi trẻ phải biết suy nghĩ tích cực: Sử dụng thái độ tích cực để đối mặt với những khó khăn mà mình gặp phải. Suy nghĩ tích cực tạo nên cuộc sống tích cực, suy nghĩ tiêu cực ngược lại sẽ tạo thành chướng ngại cho cuộc đời.
- Tuổi trẻ cần rèn luyện về ý chí, nghị lực, trang bị về tri thức, kĩ năng, sức khỏe để có đủ năng lực đương đầu với khó khăn.
- Phê phán một bộ phận giới trẻ hiện nay không dám đương đầu với thử thách, chỉ biết sống nhờ, sống gửi, lệ thuộc vào người khác…
* Bài học nhận thức và hành động:
- Hiểu được việc đối mặt với thử thách là cơ hội để làm nên thành công.
- Tích cực học tập và tu dưỡng đạo đức, rèn luyện ý chí, nghị lực; có tinh thần vượt khó; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
3. Tổng kết vấn đề.
Câu 6:
[…] Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố phường với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grat, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng mặt trời mùa xuân, mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. […] Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi qua nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12,
Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, tr.199-200, 2014).
Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên.Từ đó, nhận xét “cái tôi” trữ tình của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài bút kí.
2
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.
Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
I. Giới thiệu chung
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn am hiểu về Huế. Ông có sở trường về bút kí. Các sáng tác của ông thể hiện sự tài hoa và uyên bác.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông được sáng tác sau đại thắng mùa xuân 1975 nên vẫn còn khí thế chủ nghĩa anh hùng. Tác phẩm thể hiện tình yêu của tác giả với thành phố Huế thân thương.
- Khái quát vấn đề: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên.Từ đó, nhận xét “cái tôi” trữ tình của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài bút kí.
II. Phân tích
1. Cảm nhận về hình tượng sông Hương trong đoạn trích.
- Vẻ đẹp sông Hương ở trong lòng thành phố Huế:
+ Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế càng duyên dáng, vui tươi được nhân hóa mang tâm trạng như con người. Khi biết đã tìm đúng đường để về gặp thành phố thân yêu, sông Hương vui tươi lên hẳn lên giữa biền bãi vùng ngoại ô Kim Long. Sông Hương lúc này đã là một cô gái có tâm hồn, ý thức tìm được chính mình, đi tìm tình yêu đích thực của mình để được ôm ấp trong lòng một cố đô cổ kính.
+ Giữa lòng thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp cổ kính: Nhà văn so sánh sông Hương với sông Xen của Pa-ri và sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét để thấy vẻ đẹp riêng của dòng sông Hương là nó thuộc về một thành phố duy nhất và chỉ một mình nó còn nằm trong tổng thể một đô thị cổ. Nó trôi đi bên cạnh những cây đa cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, mà ở đó vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ. Vẻ đẹp cổ kính ấy của Huế, của sông Hương “không có một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”.
+ Sông Hương còn có vẻ đẹp sâu lắng, trầm mặc, thơ mộng với dòng chảy chậm rãi. Đặc điểm dòng chảy chậm ấy được nhà văn lí giải từ nhiều góc nhìn khác nhau. Từ đặc điểm địa lí tự nhiên thì những chi lưu tỏa ra khắp phố thị cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước. Nhưng mặt khác, bằng lí lẽ của trái tim tác giả cho rằng “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông Hương là do tình cảm của nó dành riêng cho Huế. Sông Hương do quá yêu thành phố thân thương của mình nên dùng dằng không nỡ rời xa, nó chảy chậm, thật chậm để được ở bên người tình mong đợi.
- Nghệ thuật: Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, giọng văn nhẹ, hoài niệm. Sử dụng nhiều phép tu từ như: So sánh, nhân hoá, liên tưởng kì diệu,… Tác giả còn vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu biết sâu sắc về nhiều mặt như địa lý, thơ ca, âm nhạc
2. Nhận xét về cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Qua đoạn văn trên, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện:
- “Cái tôi” của một người nghệ sĩ tài hoa ở lối hành văn uyển chuyển mà lịch lãm, ngôn từ giàu hình ảnh, gợi cảm, trí tưởng tượng liên tưởng độc đáo.
- “Cái tôi” của một người có tri thức uyên thâm trong việc vận dụng kiến thức địa lí, hội họa, … để ghi lại chính xác hành trình của sông Hương và đặc điểm dòng sông ở các địa danh mà dòng sông đi qua.
- “Cái tôi” nặng lòng với quê hương xứ sở, ngợi ca tôn vinh những giá trị tinh thần của quê hương.
*Đánh giá:
Đoạn văn đã khắc họa tinh tế vẻ đẹp sông Hương trên nhiều phương diện với văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. Từ đó cho thấy tâm hồn nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có tình cảm sâu nặng với Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
III. Kết luận
- Khái quát lại vấn đề.
- Giá trị nội dung, nghệ thuật.