(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 39)
(2025 mới) Đề ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn có đáp án (Đề số 39)
-
44 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
60 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ xuất hiện dưới hình thức ẩn chủ ngữ (là một người, một giọng đang chia sẻ với người đọc về “lão làng tiên chỉ”).
Câu 2:
Hành động của “lão làng tiên chỉ” trong khổ 2 và khổ 4 của bài thơ: Đêm đêm thu mình trong cửa; nghiêng ngó ra ngoài đồng; khép cửa, nằm gối đầu lên chồng sách cũ, tay vắt trán thở dài khi nghe thấy tiếng hát ca Quan Họ và nhìn thấy những đôi trai gái quấn gót nhau đi vòng theo ngõ tre; hếch kính nhìn bức tranh “Hứng dừa”; mím môi lấy gân tay, nhúng mực đen quết đầy hai ống chân nõn nà trong bức hoạ.
Câu 3:
Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ ẩn dụ trong các dòng thơ:
“Trai gái trong xã
Rút ống chân khỏi vạt mực đen ngòm
Chạy ra bến sông khoả ảnh trăng mát rượi”
Tác dụng của biện pháp tu từ ẩn dụ trong các dòng thơ: “Trai gái trong xã Rút ống chân khỏi vạt mực đen ngòm/ Chạy ra bến sông khoả ánh trăng mát rượi”: (1) Làm nổi bật sự phản kháng mạnh mẽ của “trai gái trong xã” của tuổi trẻ, tình yêu, của khát vọng vượt thoát khỏi những phép tắc, khuôn khổ giáo điều, cổ hủ hòng kìm nén, toả chiết con người. “Rút ống chân khỏi vạt mực đen ngòm” mà “lão làng tiên chỉ” “mím môi lấy gân tay” “quết đầy” “hai ống chân nõn nà trong bức hoạ” ẩn dụ cho hành động sẵn sàng bất chấp, “tuyên chiến” quyết liệt đó để băng theo tiếng gọi của sức sống hồn nhiên khoẻ khoắn, mãnh liệt, của tình yêu và hạnh phúc. Đó là một “đối thoại” không lời, một “câu trả lời” “thẳng băng”, trực diện, dứt khoát với hành động của “lão làng tiên chỉ”, với cái “vòng kim cô” kì thị muốn kiềm toả, trói buộc khao khát hạnh phúc của tuổi trẻ. (2) Làm nổi bật vẻ đẹp tươi mát, tràn đầy sức sống của thiên nhiên và con người. Động từ “khoả” đã khiến “ánh trăng mát rượi” trở thành hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ thị giác sang xúc giác, từ ánh sáng trở thành dòng sáng lung linh “mát rượi”. Sức sống trẻ trung, khoẻ khoắn, hồn nhiên của con người hoà với vẻ đẹp tươi tắn, tràn đầy của thiên nhiên, tạo nên vẻ đẹp thật viên mãn. (3) Tạo ra cách diễn đạt mới mẻ, độc đáo, ấn tượng.
Câu 4:
Chỉ ra cấu tứ của bài thơ.
Cấu tứ của bài thơ: (1) Hình ảnh và cảm xúc trong bài thơ được tổ chức theo mạch tự sự. Bài thơ bắt đầu với những sự việc, chi tiết về hành động, ngôn ngữ của “lão làng tiên chỉ” mũ áo xênh xang, đứng đầu ngôi thứ trong làng, lo lắng, bực bội, cao giọng, giáo điều, giận dữ khi nhận ra tiếng ca Quan Họ “bay cao đỉnh núi, chạy dài nguồn sông” đã khơi nguồn cho một cuộc “nổi loạn” của sức sống và khát vọng hạnh phúc. Đáp lại “lão làng tiên chỉ” là hành động của “trai gái trong xã”, là tiếng hát cất lên không chỉ “cao đỉnh núi”, “dài nguồn sông” mà còn “nhuộm” mùi hương hoa bưởi nồng nàn, quyến rũ, khiến “Cụ tiên chỉ bịt tai/ Vội mở sách thánh hiền, nén giận”. (2) Bên cạnh đó, bài thơ còn được cấu tử theo quan hệ đối lập: đối lập giữa một “lão làng tiên chỉ” xênh xang, nghênh ngang, mũ cao áo trọng ở không gian của cộng đồng với “lão làng tiên chỉ” “đêm đêm” trong không gian “thu mình sau cánh cửa”; đối lập giữa “lão làng tiên chỉ” với “trai gái trong xã”. (3) Cách cấu tứ này làm nổi bật sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt của tâm hồn con người được gửi gắm trong những câu hát, những bức tranh dân gian vượt lên tất cả sự bảo thủ, khắt khe, kiềm toả.
Câu 5:
Bài thơ gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì ý nghĩa của những câu hát dân gian trong cuộc sống hiện nay?
Ý nghĩa của những câu hát dân gian trong cuộc sống hiện nay.
Gợi ý: (1) Những câu hát dân gian cho chúng ta cảm nhận được đời sống tâm hồn tình cảm phong phú, sức sống hồn nhiên, khoẻ khoắn, mạnh mẽ, tiếng lòng khát khao hạnh phúc mãnh liệt vượt lên mọi ràng buộc khắt khe giáo điều trong xã hội của người bình dân xưa. (2) Những câu hát dân gian gửi thông điệp cho chúng ta về tình yêu lứa đôi trong sáng, tình yêu cuộc sống, yêu cái đẹp, nuôi dưỡng tâm hồn, biết trân trọng, nâng niu cái đẹp, giữ gìn những giá trị tinh thần trong cuộc sống. Câu hát đã từ trái tim người tìm đến “làm tổ” trong trái tim ta, khơi dậy những tình cảm mới mẻ, trong sáng, những đắm đuối, nồng nàn,... Những câu hát của người bình dân xưa luôn “trẻ” mãi trong cuộc sống hôm nay.
Câu 6:
II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích đặc điểm của nhân vật hài kịch được thể hiện qua nhân vật Sai-lốc trong văn bản sau:
Sai-lốc: Thế nào? Tubal? Có tin tức gì của thành Genod[1]? Anh có tìm thấy con gái tôi không?
Tubal: Nghe thấy người ta nói có gặp cô ấy ở đâu là tôi đã đi khắp mà không sao tìm thấy.
Sai-lốc: Thôi, thế là xong, thế là đi đời! Mất biển một viên ngọc kim cương tôi đã mua mất hai nghìn đuy ca ở Frankfurt[2]'. Chưa bao giờ tại hoạ đè nặng lên dân tộc ta, chưa bao giờ tôi bị đau xót như ngày hôm nay. Hai nghìn đuy-ca trong viên ngọc đó, và lại còn những đồ châu báu khác đắt tiền nữa, rất đắt tiền! Ôi! Tôi chỉ mong muốn được trông thấy đứa con gái tôi chết nằm dưới chân tôi, hai tai đeo ngọc kim cương, con gái tôi nằm trong quan tài ở dưới chân tôi và có tất cả những đồng đuy-ca trong mình nó! Không có tin tức gì về chúng nó? Và cùng không biết rồi tôi còn phải tổn phi bao nhiêu để tìm chúng nó nữa. Ôi chao ôi! Mất đơn mất kép, đứa ăn trộm trốn đi với bao nhiêu tiền của, và bao nhiêu kẻ để bắt nó lại mà không được thoả nguyện, không được trả thù! Và không có nỗi bất hạnh nào không đè lên lưng tôi, không có tiếng thở ngắn nào không ở miệng tôi ra, không có nước mắt nào không ở mắt tôi tuôn xuống!
[...] Tubal: Theo như tôi được nghe nói, thì con gái của anh đã tiêu ở đó tám chục đuy-ca ngay một lúc.
Sai-lốc: Anh đâm một nhát dao găm vào tim tôi không bằng. Tôi sẽ không bao giờ trông thấy lại số vàng của tôi. Tám chục đuy-ca một lúc, tám chục đuy-ca!
(Trích Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ, William Shakespeare, in trong Những vở kịch nổi tiếng, Tuấn Đô dịch, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2017, tr.82-84)
a. Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Sai-lốc trong văn bản là nhân vật hài kịch, là đối tượng của tiếng cười phê phán thói hám vàng bất chấp cả tình phụ tử.
b. Thân đoạn: Làm rõ vấn đề nghị luận
(1) Nêu ngắn gọn đặc điểm của nhân vật hài kịch (thường có sự không tương xứng giữa thực chất bên trong và hành động bên ngoài, suy nghĩ và hành động,.. hoặc có thói quen, tính cách, ứng xử,... trái với lẽ thường, trở thành đối tượng của tiếng cười. Nhân vật trong hài kịch thường được thể hiện theo lối tô đậm, cường điệu). (2) Làm rõ đặc điểm của tính cách hám vàng và thủ pháp nghệ thuật cường điệu tô đậm tính cách đó ở nhân vật Sai-lốc (Sự tiếc của, đau xót đến điên dại; Sự nguyền rủa dành cho con gái; Sự khao khát trả thù “đứa ăn trộm”; những cách diễn đạt cường điệu hoá (Chưa bao giờ tai hoạ đè nặng lên dân tộc ta, chưa bao giờ tôi bị đau xót như ngày hôm nay; không có nỗi bất hạnh nào không đè lên lưng tôi, không có tiếng thở ngắn nào không ở miệng tôi ra, không có nước mắt nào không ở mắt tôi tuôn xuống; Anh đâm một nhát dao găm vào tim tôi không bằng,...). Qua đó, tác giả thể hiện tiếng cười phê phán, cảnh báo sự băng hoại những giá trị đạo đức bởi tác động của đồng tiền).
c. Kết đoạn: Khẳng định lại đặc điểm tính cách hài kịch của nhân vật Sai-lốc.