(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Lục Ngạn 1 sở GD&ĐT Bắc Giang lần 2 có đáp án
(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Lục Ngạn 1 sở GD&ĐT Bắc Giang lần 2 có đáp án
-
75 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
45 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Phương pháp: Vận dụng kiến thức về các thể thơ đã học.
Cách giải:
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2:
Trong đoạn thơ thứ hai, cánh đồng trong ký ức của nhân vật tôi được miêu tả qua những từ ngữ hình ảnh nào?
Phương pháp: Đọc, tìm ý.
Cách giải:
Cánh đồng trong ký ức của nhân vật tôi được thể hiện qua những từ ngữ + hình ảnh: gió đồng, tiếng thở của trăng sao, cánh đồng tăm tắp, mùi nắng rạ.
Câu 3:
Nêu tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa trong những dòng thơ sau:
Chân đất, đầu trần
hú gió đồng mải miết
chị và tôi
nghe tiếng thở của sao, trăng…đầm đẫm nước.
Phương pháp: Vận dụng kiến thức về biện pháp tu từ.
Cách giải:
Gợi ý:
Tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa: Tái hiện lại khung cảnh yên bình của cánh đồng trong kí ức tuổi thơ.
Câu 4:
Nhận xét về tình cảm của nhân vật trữ tình với con người và quê hương trong bài thơ.
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Học sinh tự đưa ra nhận xét của bản thân, có lý giải hợp lý.
Gợi ý:
Tình cảm của nhân vật trữ tình với con người và quê hương trong bài thơ:
- Sự hoài niệm đầy nhớ thương của tác giả đối với con người và quê hương.
- Sự trân trọng, yêu thương con người và quê hương của tác giả.
Câu 5:
II. LÀM VĂN:
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của những năm tháng tuổi thơ vất vả, nhọc nhằn đối với cuộc đời mỗi người.
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận xã hội.
Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Viết đúng một đoạn văn nghị luận xã hội theo cấu trúc.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
* Nêu vấn đề: Ý nghĩa của những năm tháng tuổi thơ vất vả, nhọc nhằn đối với cuộc đời mỗi người.
* Bàn luận:
- Tuổi thơ là một phần rất quan trọng trong quá trình hình thành phát triển của con người.
- Mỗi người đều có một khoảng trời kí ức tuổi thơ riêng. Không ai mong muốn có một tuổi thơ với những vất vả, nhọc nhằn. Tuy nhiên, một tuổi thơ chứa đầy những vất vả, nhọc nhằn không hoàn toàn là không tốt.
+ Tuổi thơ chứa đầy những vất vả giúp con người ý thức được giá trị của cuộc sống từ đó học cách trân trọng cuộc sống.
+ Tuổi thơ chứa đầy vất vả giúp con người hình thành sự kiên nhẫn, khả năng chịu đựng, vượt qua khó khăn.
+ Tuổi thơ chứa đầy sự vất vả khiến con người biết đồng cảm, có lòng trắc ẩn,.
…
- Khi có một tuổi thơ chứa đầy sự vất vả thay vì oán trách, chúng ta hãy biết ơn sự vất vả, nhọc nhằn vì chính sự vất cả nhọc nhằn ấy đôi khi là hành trang tốt nhất cho mỗi chúng ta trên đường đời.
* Tổng kết:
Câu 6:
II. LÀM VĂN:
Phân tích đoạn văn sau:
[…] Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bám âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”
Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương Xứ Sở.[..]
Từ đó, nhận xét về cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với hình tượng sông Hương.
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.
Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
I. Giới thiệu chung
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người am hiểu về Huế và là một cây bút kí tiêu biểu của nền văn học Việt Nam với phong cách sáng tác đầy tài hoa, uyên bác.
- Đoạn trích nằm ở phần giữa của tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông – tập bút kí nổi tiếng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đoạn trích là khi con sông Hương chảy ra khỏi kinh thành Huế.
- Khái quát vấn đề: Vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn văn hóa (âm nhạc), địa lý. Từ đó, nhận xét về cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với hình tượng sông Hương.
II. Phân tích
1. Cảm nhận về nội dung đoạn trích.
a/ Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc nhìn văn hóa – là nơi hình thành nền âm nhạc cung đình.
- Sông Hương gắn bó trong cái nôi của nền âm nhạc Huế. Nghe âm nhạc cổ điển Huế trên dòng Hương, để thưởng thức nét đẹp trong không gian văn hoá nơi nó được sinh thành, để cảm nhận bao cái dư âm, trang trọng, sang nhã của toàn bộ nền âm nhạc xứ Cố đô.6
- Sự sinh thành nên âm nhạc Huế được giải thích như thế này: Vào những đêm trăng thanh, không gian lặng tờ đến mức có thể nghe được tiếng động rất nhẹ của những nhịp chèo, mái đẩy, câu hò,... Nhịp chèo mái đẩy đã làm nên tiết tấu, những câu hò đã làm nên giai điệu, từ đó dần tạo nên những bản nhạc, những khúc hát gắn mình với dòng Hương giang. Chính những người nghệ sĩ trên sông nước đã tạo nên những âm khúc đầu tiên, đặt nền móng cho nền âm nhạc xứ Huế, của khúc Tứ đại cảnh nổi tiếng.
- Nhưng còn một phát hiện bất ngờ nữa, sông Hương chính là cái nôi sinh thành bản đàn tuyệt diệu trong Truyện Kiều. Tác giả tưởng tượng hai trăm năm trước, Nguyễn Du từng lênh đênh trong lòng Hương với vầng trăng sáng. Và từ đó, những khúc đàn mà Kiều lẩy nên, đã mang dư âm của dòng Hương giang lặng lẽ, phiến trăng sầu phủ nhuốm, ngân vang tâm trạng.
b/ Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc nhìn địa lý – khi sông Hương chảy ra khỏi thành phố mà nó yêu thương.
- Theo đặc điểm tự nhiên, hướng chảy của dòng sông theo hướng tây sang đông để đổ ra biển. Khi qua thành phố, sông Hương vì uốn dòng nên xuôi theo hướng chếch bắc, để có thể đổ ra biển, sông Hương một lần nữa uốn dòng chảy, do đó mà gặp lại xứ Huế ở Bao Vinh.
- Cảm quan nhà văn: Điệu chảy này như một sự cố ý của người con gái sông Hương, sự đổi dòng ấy lạ với tự nhiên, mà thân quen với con người. Và ngay từ ban đầu, tác giả đã xem sông Hương là một người con gái, hơn thế nữa còn là người con gái chí tình, và cái điệu chảy đó không thể khác là nỗi vương vấn, nhớ nhung, muốn quay trở lại gặp người tình thêm một lần nữa để nói lời chung thủy, trước khi xuôi về biển cả.
2. Nhận xét về cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với sông Hương.
- Cái nhìn mang tính phát hiện. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn sông Hương không đơn thuần là một dòng sông. Cách ông nhìn sông Hương cho chúng ta cảm thấy sông Hương cũng có tâm hồn, như một con người thực thụ, có suy tư, có trăn trơ, có đắn đo,…
- Chính tình yêu tha thiết với Huế nói chung và với dòng sông Hương nói chung đã giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn mang tính phát hiện độc đáo như vậy đối vơi dòng sông Hương.
III. Kết luận
- Khái quát lại vấn đề.
- Giá trị nội dung, nghệ thuật.