(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Triệu Sơn 4 có đáp án
(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Triệu Sơn 4 có đáp án
-
141 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
45 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Câu 2:
Theo tác giả, những chuyến đi thiện nguyện đem lại cơ hội cho tuổi trẻ:
- Gặp gỡ những người trẻ sống có hoài bão, giúp bạn nghe được những câu chuyện về những người dân, những đứa trẻ ở mỗi vùng đất bạn đi qua.
- Khiến bạn trưởng thành hơn.
- Giúp bạn biết sống tư lập, có trách nhiệm với bản thân mình, biết thấu hiểu và yêu thương, không còn những toan tính vị kỷ.Câu 3:
- Biện pháp tu từ: so sánh: “tuổi trẻ” so sánh với “một thước phim”.
- Tác dụng:
+ Làm nổi bật vẻ đẹp, sự lôi cuốn và hấp dẫn của tuổi trẻ.
+ Làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt, giúp người đọc có cái nhìn rõ hơn về ý nghĩa những chuyến đi thiện nguyện của tuổi trẻ.Câu 4:
Thiện nguyện là những chuyến đi mà ở đó bạn là người cho đi những yêu thương để nhận lại những bài học làm người vô giá, những giá trị cuộc sống sâu sắc mà không giáo trình nào, không trường học nào dạy bạn cả?
Anh/chị có đồng tình với quan niệm trên không? Vì sao?
- Đồng tình với quan niệm.
- Lí giải:
+ Trong từng chuyến đi như vậy, là ta đang đi trao con tim, trao tình thương của mình cho mọi người.
+ Ta nhận lại được lòng biết ơn, nụ cười chân thành của họ.
+ Học được cách cho đi mà không cần nhận lại gì; học được cách đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh, để thấy được ta may mắn hơn họ rất nhiều và cần phải trân trọng những gì mình đang có.Câu 5:
II. LÀM VĂN
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của những điều bé nhỏ cũng có thể đem lại niềm vui trong cuộc sống.
1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn: Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo một cách hoặc kết hợp các cách: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành hoặc tổng - phân - hợp; bảo đảm yêu cầu về cấu trúc đoạn văn.
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một vài gợi ý cần hướng tới:
- Những điều bé nhỏ cũng có thể đem lại niềm vui trong cuộc sống là: những điều nhỏ nhặt tưởng chừng như rất đơn giản, rất đời thường, không ai để ý đến, nhưng khi bạn nhận được, hay hoàn thành điều đó thì cảm thấy vui vẻ, phấn khởi hơn.
- Nhận ra rằng niềm vui không cần phải đến từ những gì lớn lao, quá khả năng mà có thể đến từ những điều nhỏ nhặt, giản dị trong cuộc sống
- Nhắc chúng ta phải luôn biết quan tâm, sớm nhận ra và trân trọng mọi thứ xung quanh mình
- Luôn cố gắng phấn đấu, nỗ lực không ngừng để tìm kiếm niềm vui và lan tỏa cho mọi ngườiCâu 6:
II. LÀM VĂN
Trong văn bản “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân viết:
“…Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. (…). Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo…”
(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một,
NXB Giáo dục, 2008)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét về chữ “ngông” trong phong cách của Nguyễn Tuân.
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Mở bài - nêu được vấn đề; Thân bài -triển khai được vấn đề; Kết bài - khái quát được vấn đề.