(2023) Đề thi thử Ngữ Văn Sở GD Nghệ An (Lần 3) có đáp án
-
327 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
120 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
(1) Mặc ai giận, mặc ai thương nỏ biết
Tôi vẫn yêu câu ví dặm ngàn đời
Câu ví của ông bà mộc mạc
Tôi lớn dần cùng với tiếng đưa nôi
(...)
(2) Vẫn muối mặn gừng cay thuở ấy
Người xưa trao câu ví thật lòng
Trao nhân nghĩa chẳng thể nào đánh mất.
Để ngàn đời hóa núi, nên sông
(3) Câu ví thấm vào cây vào đất
Cây xanh tươi và đất mỡ màu.
Câu ví lặn vào trăng, vào nước
Để ngàn đời trăng nước yêu nhau
(4) Câu ví gợi quả cà, quả ớt
Gợi vệt bùn trên chiếc áo nâu
Ơi câu ví một thời tôi thổn thức
Đêm Trường Sơn trăng mắc võng hai đầu
1
(5) Câu ví đượm buồn vui đau khổ
Giống người dân xứ Nghệ ngàn đời
Câu ví dạy tôi biết ăn, biết ở
Như ông bà, cha mẹ, làng tôi.
(Phan Thế Cải, Ví dặm thương, nguồn: thivien.net)
Xác định thể thơ của văn bản.
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức đã học về các thể thơ đã học.
Cách giải:
Thể thơ: tự do
Câu 2:
Phương pháp: Vận dụng kiến thức về biện pháp tu từ.
Cách giải:
- Liệt kê: quả cà, quả ớt, vệt bùn
- Tác dụng:
+ Liệt kê những hình ảnh gần gũi quen thuộc của cuộc sống lao động, sinh hoạt hàng ngày của người dân xứ Nghệ giúp câu thơ trở nên sinh động, gợi hình gợi cảm, thể hiện được vẻ đẹp mộc mạc của câu ví dặm.
+ Câu ví mang trong mình bao nỗi vất vả gian truân thiếu thốn của cuộc sống lam lũ đời thường.
Câu 3:
Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu thêm điều gì về vai trò của câu ví trong đời sống tinh thần người dân xứ Nghệ:
Câu ví đượm buồn vui đau khổ
Giống người dân xứ Nghệ ngàn đời
Câu ví dạy tôi biết ăn, biết ở
Như ông bà, cha mẹ, làng tôi.
Phương pháp: Phân tích, lý giải.
Cách giải:
Vai trò của câu ví trong đời sống tinh thần người dân xứ Nghệ qua khổ (4):
- Câu ví là tấm gương soi chiếu bao tâm sự vui buồn trong cuộc sống của người dân xứ Nghệ.
- Qua câu ví, cha ông còn truyền lại cho hậu thế những bài học nhân sinh, đạo lí làm người.
- Câu ví giúp mỗi người học thêm những điều bình dị mà sâu lắng trong cuộc sống.
Câu 4:
Tình cảm của nhân vật trữ tình đối với ví dặm trong bài thơ trên có ý nghĩa gì với anh/chị?
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Học sinh nêu quan điểm của bản thân mình, có lý giải cụ thể, phù hợp.
Gợi ý:
- Tình yêu, lòng tự hào của nhân vật trữ tình đối với ví dặm trong bài thơ trên đã gợi nhắc mỗi người cần biết trân trọng câu ví dặm- một nét đẹp văn hóa truyền thồng của xứ Nghệ.
- Từ đó, biết góp sức mình bảo tồn, phát huy giá trị ví dặm trong cuộc sống hiện đại.
Câu 5:
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về trách nhiệm của thế hệ mình trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca ví dặm trong cuộc sống hôm nay.
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận xã hội.
Cách giải:4
Yêu cầu hình thức:
- Viết đúng một đoạn văn nghị luận xã hội theo cấu trúc.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
- Giới thiệu vấn đề: Trách nhiệm của thế hệ mình trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của dân ca ví dặm trong cuộc sống hôm nay.
- Bàn luận vấn đề:
+ Dân ca ví dặm là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc miền Trung Việt Nam.
- Hiện nay, các giá trị văn hóa truyền thống nói chung, dân ca ví dặm nói riêng đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Việc bảo tồn, phát huy giá trị của ví dặm là trách nhiệm chung của tất cả mọi người, đặc biệt là của thế hệ trẻ.
- Người trẻ cần cảm nhận được vẻ đẹp của ví dặm và biết trân trọng nét đặc sắc văn hóa này. Từ đó, mỗi người sẽ đóng góp một phần sức mình để ví dặm thực sự được sống trong cuộc sống hiện đại hôm nay.
- Liên hệ bản thân và tổng kết vấn đề.
Câu 6:
“...Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở. Dòng nước mắt lấp lãnh bò xuống hai hôm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh thế, Mị chợt nhớ đệm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng. xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy. Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc đó bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó. Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phe từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay...”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuyu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
– A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
–Ở đây thì chết mất. A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2018, tr13,14)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên.Từ đó, liên hệ với chi tiết Mị nghĩ tới nắm lá ngón trong đêm tình mùa xuân để nhận xét đóng góp của nhà văn Tô Hoài khi viết về người lao động vùng núi cao Tây Bắc.
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học. Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
I. Giới thiệu chung
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Tô Hoài là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với hiểu biết sâu rộng đặc biệt là phong tục tập quán trong sinh hoạt đời thường của người dân miền núi kết hợp với ngôn ngữ phong phú, giàu chất biểu đạt, đậm chất khẩu ngữ, Tô hoài đã để lại một kho tàng tác phẩm hết sức phong phú.
- Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế dài 8 tháng của Tô Hoài lên vùng núi Tây Bắc, cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Tác phẩm đã tái hiện cuộc sống khổ cực tăm tối của con người trong giai đoạn này dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Đồng thời bày tỏ thái độ trân trọng đối với sức mạnh tiềm tàng trong con người nơi đây.
* Khái quát vấn đề nghị luận: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên.Từ đó, liên hệ với chi tiết Mị nghĩ tới nắm lá ngón trong đêm tình mùa xuân để nhận xét đóng góp của nhà văn Tô Hoài khi viết về người lao động vùng núi cao Tây Bắc.
II. Phân tích:
1. Cảm nhận nhân vật Mị
a. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm. Đây là diễn biên tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm Đông khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói và hành động giải thoát cho A Phủ và cho chính mình của nhân vật Mị.
b. Giới thiệu khái quát về nhân vật Mị:
- Mị vốn là một cô gái trẻ, đẹp, một bông hoa rừng ngát hương có khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc.
- Mị là một cô gái hiếu thảo (xin trả nợ thay bố, vì cha sẵn sàng đánh đổi cả hạnh phúc đời mình)
- Thế nhưng bi kịch xảy ra từ khi Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra.
+ Cô có cuộc sống tăm tối, lúc nào cũng lùi lũi ở xó cửa, làm việc ngày đêm như con trâu con ngựa nhưng cô không hề phản kháng. → Bị bóc lột thể xác, tê liệt tinh thần.
+ Sự thức tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân, tuy ngay lập tức bị A Sử dập tắt nhưng đã bước đầu tạo tiền đề cho hành động của Mị trong đêm Đông.
c. Diễn biến tâm lý của Mị trong đêm Đông cởi trói cho A Phủ.
* Bối cảnh gặp gỡ:
- A Phủ là người ở gạt nợ trong nhà của thống lý Pá tra.
+ Quanh năm bôn ba, rong ruổi ở ngoài gò, ngoài rừng.
+ Năm ấy đói rừng → Để hổ bắt mất một con bò cho nên A Phủ đã phải lãnh hậu quả nặng nề. A Phủ bị trói đứng vào cây cột trong góc nhà.
- Mị: Sau đêm tình mùa xuân → Rơi vào trạng thái chết tinh thần → Trạng thái nặng nề hơn trước.
+ Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn → Mị không ngủ được, trở dạy thổi lửa để hơ tay, hơ lưng không biết bao nhiêu lần. Chỉ chợp mắt từng lúc rồi dậy để sưởi lửa suốt đêm → Mị chỉ quan tâm đến ngọn lửa để xua tan lạnh lẽo về thể xác và băng giá trong tâm hồn.
+ Có đêm A Sử về đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp, đêm sau Mị vẫn dậy để sưởi lửa.
+ Trong những đêm A Sử xuất hiện trong tình thế bị trói đứng trên cây cột trong góc nhà → Khi Mị thổi ngọn lửa bùng lên thì A Phủ đang đứng trong góc nhà thiêm thiếp đi như một phản xạ tự nhiên, A Phủ mở mắt trừng trừng. Cùng lúc ấy, Mị nhìn sang mới biết là A Phủ còn sống nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Thậm chí nếu A Phủ là xác chết đứng đấy với Mị cũng thế thôi. → Sự vô cảm của Mị xuất phát từ hai lý do: Một là, cảnh trói người đến chết đã từng xảy ra không quá lạ lẫm với Mị. Hai là, sự tê liệt trong đời sống tâm hồn Mị đã lên đến đỉnh điểm. Mị chỉ còn biết chỉ ở với ngọn lửa.
* Sự thức tình, hồi sinh:
(+) Nguyên nhân: Đêm ấy, Mị lại dậy thổi lửa vào lúc đã khuya mọi người trong nhà đã ngủ yên, Mị lại trở dậy thổi lửa, Mị thấy A Phủ cũng vừa mở mắt. Mị thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. → Mị bừng tỉnh từ cõi quên trở về với cõi nhớ, từ cõi vô thức, Mị đã sống lại ý thức.
(+) Diễn biến tâm lý:
- “Dòng nước mắt lấp lánh”: Mị sống lại kí ức đau khổ trong một trường liên tưởng tương đồng hết sức tự nhiên. Nhớ lại năm xưa và nhân ra sự giống nhau đến kì lạ giữa hai người.
+ Cùng là thân phận người làm không công – trâu ngựa cho gia đình thống lý.
+ Cùng bị đối xử tàn tệ, bị trói đứng vào cây cột trong góc nhà. Chỉ khác Mị bị trói bằng một thúng sợi dây đay do chính tay Mị tước chỉ trong một đêm nhưng lại là đêm tình mua xuân còn A Phủ bị trói bằng dây mây do chính A Phủ chuẩn bị trong nhiều đêm mùa đông.
+ Cuối cùng chảy tràn những giọt nước mắt đau đớn và bất lực. Mị nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không lau đi được. → Thức dậy tình thương: Thương thân rồi đến thương cho người trong sự đồng cảnh và đồng cảm.
- Xuất phát từ hình ảnh hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Dấu hiệu cái chết đang đến rất gần. Thần chết đang bắt đầu những nét vẽ đầu tiên trên gương mặt của A Phủ. Mị nhớ lại người đàn bà ngày trước đã chết ở nhà này → Mị phán đoán: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết: Chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Đó là sựu tất yếu khi học làm thân trâu ngựa cho nhà thống lý. -> Chúng nó thật độc ác. → Tình thương người đang lớn dần.
- Từ liên tưởng tương đồng thì dẫn tới liên tưởng so sánh, tương phản giữa Mị và A Phủ.
+ Mị nghĩ về chính mình: Ta là thân đàn bà – sự ảnh hưởng nặng nề tư tưởng nam quyền. Lại bị cúng trình ma → Mang thân phận con dâu gạt nợ bị trói buộc, tư tưởng thần quyền chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi →Vĩnh viễn không có tự do.
+ Mị so sánh với A Phủ: A Phủ khác với Mị, là một chàng trai khỏe mạnh, ưu tú. Đạc biệt anh ta chỉ là người ở gạt nợ nghĩa là anh ta vẫn còn cơ hội tự do. Cái chết rất phi lý rất đáng tiếc: “Người kia việc gì mà pải chết”. → Cái tình thương người lớn dần, lấn án cả thương thân → Người ta chết là đáng tiếc, đáng thương.
- Mị rơi vào tình huống trải nghiệm tưởng tượng: Biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con nhà thống lý sẽ bảo Mị cởi trói cho A Phủ và kết tội Mị, xử tội Mị bắt Mị phải trói thay và chết thay trên cây cột kia. Cái chết ấy vô cùng đau đớn, chết từ từ trong cảm giác đau đói và rét. Thế mà Mị không hề sợ → Tình thương người lấn át nỗi thương thân.
- Mị quyết định hành động táo bạo vì đám tha vạc hẳn lửa khiến cho trong nhà tối bưng. Bóng tối triowr thành đồng minh rất an toàn của Mị, hậu thuẫn cho Mị. Mị lấy con dao cắt lúa để cắt dây mây cởi trói cho A Phủ. → Hành động quyết liệt cắt dây cởi trói cho A Phủ cũng có nghĩa là cắt đi sợi dây trói buộc, ràng buộc sợi dây cường quyền và thần quyền của Mị.
- Sau khi lần giữ hết những vòng dây mây trên người A Phủ → Mị trở nên hốt hoảng. Tình thương người được giải tỏa, chỉ còn lại nỗi thương thân → thức dậy nỗi sợ hại nhất là khi A Phủ đi rồi nghĩa là cái chết đang đến rất gần với Mị.
- “Mị đứng lặng trong bóng tối” Câu văn được tách ra đứng độc lập thành đoạn văn → Có sức dồn chứa đấu tranh, giằng co. Nếu ở lại đồng nghĩa với việc Mị phải chờ cái chết khủng khiếp sắp đến. Nếu ra đi thì Mi phải liều lĩnh đối mặt với cường quyền, thần quyền → nỗi sợ → thôi thúc bản năng tự vệ tích cực → quyết định vùng chạy, băng đi trong bóng tối → quyết liệt tìm đường sống cho mình.
- Mị đuổi kịp A Phủ, Mị vừa mói, vừa thở trong hơi gió thốc lạnh buốt. “A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất”. Sau bao nhiêu năm tháng câm lặng, câu nói đầu tiên của Mị là câu nói xin được giải cứu, quyết liệt tìm đường sống. → Trước lời đề nghị của Mị, A Phủ đã đáp lời bằng một câu rất gọn chắc “Đi với tôi”. A Phủ thốt ra câu nói trong tình thế kiệt sức không chắc, không biết có đi nổi không; Bị động không hề có kế hoạch trốn thoát từ
trước mà bản thân không biêt sẽ đi đâu. Thế nhưng câu trả lời Mị vẫn đầy tự tin thể hiện sự mạnh mẽ truyền niềm tin và sức mạnh cho Mị.
- Hai người lẳng lặng đỡ nhau loạng choạng chạy xuống dốc núi. Họ đang phải nương tựa vào nhau khi A Phủ có sức mạnh tinh thần còn Mị mang sức mạnh thể chất.
→ Hai người đang chấp chới những cánh bay mở đầu giúp họ đi từ thung lũng đau thương ra đến cánh đồng vui.
- Hai người đã đến với mảnh đất Phiềng Sa nên vợ nên chồng, cùng nhau xây dựng tổ ấm hạnh phúc. Họ cùng tham gia du kích để không chỉ có thể giải phóng hoàn toàn cuộc đời chính họ mà còn quay trở lại để giải phóng bản làng quê hương.
=> Hành động dù là tự phát nhưng lại mang ý ngĩa rất tích cực: Là sự vỡ bờ khi quá tức nước, là sự vùng dậy đấu tranh để tự cứu mình. Đó là con đường tất yếu, duy nhất để họ có thể thoát khỏi chốn địa ngục trần gian, để học có cơ hội tìm được hạnh phúc.
2. Liên hệ với chi tiết Mị nghĩ tới nắm lá ngón trong đêm tình mùa xuân:
- Trong đêm tình mùa xuân, khi bước vào buồng, Mị từng nghĩ: Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Ý nghĩ về cái chết ở đây chính là biểu hiện của khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa vốn chưa bao giờ bị dập tắt ở Mị. Hành động của Mị trong đêm mùa đông là sự trỗi dậy mạnh mẽ sức sống tiềm tàng ấy trong Mị.
- Đóng góp: Tô Hoài không chỉ tái hiện bức tranh đời sống tăm tối của Tây Bắc trước cách mạng mà còn ca ngợi vẻ đẹp của tâm hồn con người nơi đây. Trong đó, nét đẹp tỏa sáng rực rỡ nhất chính là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không một thế lực nào có thể dập tắt được. Đây là giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ của tác phẩm
III. Kết luận
- Khái quát lại vấn đề đươc đặt ra ở đầu bài.