(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Triệu Sơn 3 có đáp án
(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Triệu Sơn 3 có đáp án
-
188 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
45 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2:
Theo đoạn trích, trên chuyến tàu Thống Nhất trở về quê hương, người Cha đã trở thành một hành khách đặc biệt qua những biểu hiện nào?
Theo đoạn trích, trên chuyến tàu Thống Nhất trở về quê hương, người cha đã trở thành một hành khách đặc biệt qua những biểu hiện sau:
- Tấm vé không bị xé đi một góc khi Cha bước lên tàu;
- Suất cơm kèm theo dành cho khách vẫn còn nguyên;
- Ngồi thay Cha trên ghế mềm là chiếc ba lô đựng hài cốt.Câu 3:
Vì sao trong hình dung của người con, chiếc vé tàu Thống Nhất lại là “tấm chứng minh thư của người lính chiến trường”?
Câu 4:
Đoạn trích trên đã đem đến cho anh/chị bài học ý nghĩa gì?
Thí sinh có thể đưa ra cảm nhận riêng nhưng cần hợp lí, thuyết phục; không vi phạm chuẩn mực đạo đức và pháp luật. Dưới đây là gợi dẫn:
- Bài học về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn những anh hùng liệt sĩ đã cống hiến và hi sinh để bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân.
- Bài học về tình cảm gia đình, sự thành kính trân trọng, tình yêu và niềm tự hào của người con dành cho cha,…Câu 5:
II. LÀM VĂN
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến: “Thước đo của cuộc đời không phải là thời gian mà là cống hiến” (Peter Marshall).
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Ý nghĩa của sống cống hiếnc. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng cần phải làm rõ ý nghĩa của sống cống hiến đối với cuộc đời mỗi người và đối với cộng đồng xã hội. Có thể triển khai theo hướng sau:
* Giải thích: “cống hiến” là sự tự nguyện, tự giác đem tài năng, sức lực của bản thân để đóng góp vào lợi ích chung của tập thể, từ đó kiến tạo nên những giá trị tích cực, tốt đẹp cho cộng đồng. Câu nói của Peter Marshall khẳng định ý nghĩa của sống cống hiến. Đây là một đức tính tốt đẹp, đáng trân quý và cần được phát huy trong cuộc đời mỗi người.
*Bàn luận:
- Cống hiến mang lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống. Cống hiến là động lực cho sự phát triển và là yếu tố tất yếu làm nên thành công. Sự cống hiến của con người có thể là lớn lao, vĩ đại, cũng có thể bắt đầu từ những điều bình dị, nhỏ bé nhưng hữu ích, ý nghĩa hàng ngày.
- Cống hiến chính là hành động trả ơn với cuộc đời. Bởi khi ta sinh ra đã nhận được rất nhiều từ cuộc đời, phải biết cho, biết cống hiến để xứng đáng với những gì được nhận. Sống cống hiến cũng là cách để ta đánh thức những tiềm năng, năng lực bên trong bản thân, giúp ta sống tận tâm hơn, tự tin, năng động và hạnh phúc hơn.
- Thước đo của cuộc sống chính là cống hiến. Sống cống hiến, sống hết mình tức là chúng ta đang vì xã hội và vì chính bản thân mình.
- Thực tế, đã có biết bao sự cống hiến, hi sinh thầm lặng, cao cả; những con người sống tận tụy, sống hết mình, dám nghĩ, dám làm, góp phần điểm tô cho một xã hội trở nên văn minh, tốt đẹp. (Lựa chọn dẫn chứng tiêu biểu)
- Trong xã hội, đáng buồn đáng trách là vẫn tồn tại những người với tư tưởng sống hẹp hòi, ích kỷ, vụ lợi, thờ ơ, thiếu trách nhiệm với tập thể, cộng đồng.
* Bài học: Mỗi người cần phải luôn nỗ lực vươn lên, cần xác định được vị trí, khả năng đóng góp của mình cho tập thể, cho cộng đồng để sống đẹp hơn, sống tốt hơn, yêu đời hơn, trân trọng ý nghĩa cuộc sống mỗi ngày.Câu 6:
II. LÀM VĂN
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2023, tr.189-190)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Cảm nhận về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích; từ đó, nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận
- Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên bác. Ông suốt đời say mê săn tìm và diễn tả cái đẹp ở đời, tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa. Sáng tác của Nguyễn Tuân tập trung khám khá thế giới ở phương diện văn hóa mĩ thuật, khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
- Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960). Đây là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ sự vận động trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám 1945.
- Đoạn trích đã khắc họa thành công hình tượng ông lái đò, thể hiện cái nhìn mang tính phát hiện của Nguyễn Tuân về con người lao động Việt Nam: người lái đò vô danh – “chất vàng mười” của tâm hồn Tây Bắc, nhân vật điển hình cho những người lao động bình dị đã và đang sống, lao động làm giàu cho Tổ quốc.* Cảm nhận về hình tượng người lái đò qua đoạn trích
- Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa trong trận thủy chiến Sông Đà
+ Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ
Ông lái đò được đặt trong tình huống thử thách đặc biệt, đó là cuộc chiến đấu với thác dữ sông Đà, vượt qua các trùng vi thạch trận bằng tài nghệ “tay lái ra hoa”.
Trên thác đá với tướng dữ quân tợn, những hút nước chết người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và mặt ghềnh “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm” bỗng hiên ngang một người lái đò tự do, toát lên phong thái ung dung, chủ động. Bởi ông là người từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng lạch trên sông Đà: “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”.
Rất nghệ sĩ trong hình ảnh “nắm chắc lấy cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh…”; với lũ đá nơi ải nước, “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, con thuyền trong sự điều khiển của ông lái: “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”… Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu luyện.+ Vẻ đẹp trí dũng
Một mình một thuyền, ông giao chiến với sóng thác dữ dội như một viên dũng tướng luôn bình tĩnh đối đầu với muôn trùng hiểm nguy. Ông có một lòng dũng cảm vô song: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ” …
Ông lái đò khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh, đưa con thuyền vượt thác an toàn khi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”, còn lũ đá thì “thất vọng thua cái thuyền”. Cuộc đọ sức giữa con người với thiên nhiên thật căng thẳng, cam go, ác liệt và con người đã chiến thắng.
- Vẻ đẹp của sự khiêm nhường, bình dị, ung dung, tài tử nghệ sĩ sau trận thủy chiến: Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống của ông. Khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ:“sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam, và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua ”. Nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung bạo. Song qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò. Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ …”. Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ.
-> Nhận xét: Ông lái đò sông Đà là hình tượng nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp của nhân dân lao động trong công cuộc dựng xây cuộc sống mới.
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê.
+ Tạo tình huống đầy thử thách cho nhân vật; chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ; sử dụng ngôn ngữ phong phú, sáng tạo;
+ Kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc, bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú vị;
+ Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.* Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân:
- Đoạn trích là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thần thánh của dòng sông hung bạo. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn nhân dân Tây Bắc cũng như những người lao động nói chung, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lao động sản xuất, con người anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh. Từ đó, ta thấy được tình yêu và sự gắn bó của Nguyễn Tuân với nhân dân, đất nước.
- Trong quan niệm của Nguyễn Tuân, một con người bình thường khi thực thi một công việc bình thường mà đạt đến trình độ nhuần nhuyễn, điêu luyện thì đó là lúc họ bộc lộ vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Hình tượng người lái đò kết tinh phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân với những nét ổn định và đổi mới so với giai đoạn sáng tác trước Cách mạng. Trước Cách mạng, nhân vật của Nguyễn Tuân là những con người tài tử, xuất chúng của một thời vang bóng. Sau Cách mạng, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi. Thế giới nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân là những con người bình thường, dung dị và gần gũi mà ta có thể bắt gặp trong cuộc sống hàng ngày.