(2023) Đề thi thử Ngữ văn THPT soạn theo ma trận đề minh họa BGD (Đề 15) có đáp án
(2023) Đề thi thử Ngữ văn THPT soạn theo ma trận đề minh họa BGD (Đề 15) có đáp án
-
824 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
90 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Cuộc sống vốn có nhiều điều khó khăn thử thách và cả thất vọng, nỗi buồn. Dũng cảm vượt qua để luôn là chính mình và đừng để điều gì có thể che khuất ước mơ, niềm tin và hoài bão.
Trong cuộc sống chúng ta ai cũng có một ước mơ cho một ngày mai thật đẹp, dù bình dị hay phi thường - đó có thể là ước mơ của một cậu bé mồ côi mong có ngày được chăm sóc trong vòng tay người mẹ, đó là ước mơ rất đỗi giản dị của một chú bé tật nguyền được bước đi bình thường như bao người khác, ước mơ tìm được việc làm mà mình yêu thích của một chàng trai thất nghiệp, ước mơ tìm được một tình yêu đẹp, được sống yên vui hạnh phúc, hoặc có thể là những ước mơ chinh phục, vượt qua thử thách, vươn lên khẳng định mình và trở thành những gì mà mình từng ao ước. Những ước mơ đáng quý, đáng trân trọng đó luôn là niềm hy vọng, là nguồn động lực và niềm tin lớn nhất cho mỗi người để sống, để cảm nhận và hướng đến ngày mai.
Nhưng cuộc sống luôn tiềm ẩn những trở ngại, khó khăn và thử thách bất ngờ - con đường đến những ước mơ ấy không hề bằng phẳng. Bao khó khăn, trở ngại và cả bất hạnh có thể xảy ra vào những lúc không mong chờ nhất như để thử thách lòng dũng cảm của con người. Đó có thể là những trở ngại nhỏ ta vấp phải vào một thời điểm nào đó trước khi tự đứng thẳng trên đôi chân của mình. Có thể nó như những đám mây đen kịt báo hiệu cơn dông, khiến ngay cả những tâm hồn dũng cảm nhất cũng phải tìm kiếm sự chở che. Cũng có thể do khách quan hay là những ngục tù mà chính ta tự đưa mình vào... khiến ta tổn thương, mất niềm tin, và có lúc tưởng như không còn điểm tựa hay nghị lực để vượt qua. Trước những khó khăn thử thách ấy, mỗi người sẽ tự chọn cho mình cách đón nhận, đối đầu để có một hương đi riêng. Có người phó thác cho số phận, có người trốn chạy đi tìm nơi trú ẩn, có người tự thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới, cũng có người chìm vào biển tự thương thân trách phận để rồi ngã gục trong cơn dông tố cuộc đời...
Thế nhưng, bất kể là ai, tự đáy lòng của mỗi con người đều tồn tại một khát vọng mãnh liệt - đó là khát vọng sống - và được luôn là chính mình. Chính khát vọng ấy đã khiến bao trái tim trăn trở, thao thức tìm cho mình một cách nghĩ, một sức mạnh tinh thần, một hương đi để theo đuổi những hoài bão, ước mơ của mình.
(Tuyển tập hạt giống tâm hồn, Tập 1, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2022)
Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản.
Câu 2:
Theo văn bản, khát vọng là chính mình đem đến cho con người điều gì?
Câu 3:
Phân tích hiệu quả của biện pháp điệp được sử dụng trong đoạn sau: Đó có thể là những trở ngại nhỏ ta vấp phải vào một thời điểm nào đó trước khi tự đứng thẳng trên đôi chân của mình. Có thể nó như những đám mây đen kịt báo hiệu cơn dông, khiến ngay cả những tâm hồn dũng cảm nhất cũng phải tìm kiếm sự chở che.
So sánh: những trở ngại nhỏ ta vấp phải vào một thời điểm nào đó trước khi tự đứng thẳng trên đôi chân của mình với những đám mây đen kịt báo hiệu cơn dông
-Tác dụng
+ Làm tăng sức hấp dẫn, thuyết phục cho lời văn
+ Thể hiện cụ thể, hình ảnh về những trở ngại mà con người có thể sẽ gặp trên hành trình của mình
+ Nhắn nhủ mọi người luôn mạnh mẽ, vững vàng trong cuộc sống
Câu 4:
Thông điệp ý nghĩa nhất với anh/chị sau văn bản là gì?
Sau đây là một gợi ý
Thông điệp ý nghĩa nhất với tôi sau khi đọc văn bản là Dũng cảm vượt qua để luôn là chính mình và đừng để điều gì có thể che khuất ước mơ, niềm tin và hoài bão. Thông điệp này cho tôi nhận thức được rằng trên hành trình cuộc sống luôn có nhiều khó khăn, thử thách và con người cần có lòng dũng cảm, quyết tâm để theo đuổi ước mơ, giữ vững niềm tin và sống là chính mình thì mới có thể thành công. Thông điệp này cũng cho tôi nhận thức được bản thân cần mạnh mẽ hơn trong hành trình của mình. Thiết nghĩ, thông điệp không chỉ có ý nghĩa với riêng tôi mà còn giá trị với tất cả mọi người.
Câu 5:
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
giá trị của những ước mơ trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ vấn đề giá trị của những ước mơ trong cuộc sống.
Có thể theo hướng:
- Ước mơ là những điều tốt đẹp mà con người tha thiết, khao khát hướng tới trong cuộc sống
- Giá trị của ước mơ:
+ Làm cho cuộc sống của con người trở nên phong phú, ý nghĩa. Khi không có ước mơ thì cuộc sống trở nên vô vị, buồn tẻ.
+ Ước mơ giống như ngọn hải đăng định hướng cho con thuyền cuộc đời không bị lầm đường lạc lối.
+ Ước mơ là nguồn động lực để mỗi người nỗ lực vươn lên, vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống để thành công….
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo
Thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 6:
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên song. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hớp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào.
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một, Nxb GD, 2019, tr 188, 189, 190)
Phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Phân tích đoạn trích; nhận xét về nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và đoạn trích.
* Phân tích hình tượng Sông Đà
- Cảm nhận khi ở xa
+ Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người khi “oán trách”, “van xin”, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, khi “rống lên”. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước Sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống với tâm địa nham hiểm đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.
+ Những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội, đặt những tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị. Cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn hiện ra trong những ấn tuợng đặc biệt sống động của thính giác, thị giác trở thành một thứ âm thanh man dại, bản năng của một loài động vật hung dữ khi phải đối mặt với cái chết.
- Khi đến gần
+ Thác đá là sự kết hợp của sóng, nước, đá “sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá” trong ấn tượng về một không khí dữ dội cùng cái mênh mông, hung vĩ của thác đá.
+ Đá và nước kết hợp dàn bày thạch trận gồm 3 trùng vi với cách bố trí biến đổi liên tục thể hiện âm mưu nham hiểm muốn tiêu diệt mọi con thuyền đi qua.
+ Đá Sông Đà qua cái nhìn của Nguyễn Tuân hiện lên sinh động ở nhiều phương diện:
Ngoại hình “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp với so sánh hơn đem đến cho người đọc hình dung về đá là những kẻ hung ác, khó ưa.
Những hòn đá tưởng chừng như đứng ngồi tuỳ ý nhưng thực ra Sông Đà đã giao nhiệm vụ cụ thể cho từng hòn: đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang; hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá; những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá…
Đá còn được miêu tả với hàng loạt hành động: dụ cái thuyền đối phương vào sâu nữa, hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến, thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào… Đá là những kẻ hung hãn, hiếu chiến
+ Nước Sông Đà cũng là một thế lực đặc biệt hung bạo. Âm thanh cùng tốc độ khủng khiếp của nước tiếp tục được miêu tả trong các so sánh, ẩn dụ “Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập
Nhiệm vụ của nước: phối hợp, “reo hò làm thanh viện cho đá”. Nước được miêu tả với hàng loạt hành động liên tiếp: ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền, đội cả thuyền lên, bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình, thậm chí chúng còn sử dụng cả miếng đòn hiểm độc nhất: bóp chặt hạ bộ người lái đò… Nước là đội quân thuỷ quái hung hãn, tàn bạo.
=> Nhà văn sử dụng hàng loạt biện pháp: so sánh, nhân hoá, điệp… cùng những hình ảnh ấn tượng, những liên tưởng bất ngờ, thú vị, giọng điệu dồn dập, mạnh mẽ và sự kết hợp tri thức nhiều ngành để quan sát, miêu tả. Tất cả khiến cho con sông ở đoạn thác đá hiện lên thật sinh động, cụ thể thành “kẻ thù số 1” của con người.
* Nhận xét nnét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.
- Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô giác mà còn là một sinh thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà nói riêng, thiên nhiên Tây Bắc nói chung cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Vẻ đẹp của Sông Đà hòa quyện vào vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc nên càng trở nên đặc biệt. …
- Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng, tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước, đồng thời cho thấy được ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm của ông.
d. Chính tả, ngữ pháp
Bảo đảm chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.