(2023) Đề thi thử Ngữ Văn THPT Triệu Sơn, Thanh Hóa (Lần 1) có đáp án
(2023) Đề thi thử Ngữ Văn THPT Triệu Sơn, Thanh Hóa (Lần 1) có đáp án
-
339 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
120 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
[1] Mỗi người trên thế giới này đều có một cuộc đời riêng và duy nhất, với những ngoại hình và hoàn cảnh khác nhau không bao giờ trùng lặp. Hãy gọi mỗi cuộc đời như vậy là một bộ phim - những bộ phim cuộc đời con người. Ai cũng có bộ phim cuộc đời của riêng mình, bất kể đó là kẻ hành khất hay một vị vua. [2] Trong bộ phim cuộc đời ấy, chúng ta vừa là người viết kịch bản, vừa là đạo diễn kiêm diễn viên và thậm chí kiêm khán giả nữa. Nhưng có một sự thật đáng tiếc, thay vì làm đạo diễn điều khiển cuộc đời mình, dường như chúng ta lại thích thú hơn với việc làm khán giả cho bộ phim của người khác, từ người thân quen, người trong các mối quan hệ xã giao hay thậm chí là người hoàn toàn xa lạ. Việc tình nguyện làm khán giả cho người khác là một thói quen nguy hiểm. Nó không chỉ làm bạn hao phí nhiều thời gian, sinh lực mà còn khiến bạn quen với thế bị động, bị động theo dõi người khác và rồi bị động luôn với chính cuộc đời mình. Mỗi ngày, nhờ internet bạn biết được bao nhiêu chuyện “hay hay” trên thế giới, từ cô nàng minh tinh màn bạc Hollywood lộ hàng khi dạo phố cho đến anh nhà quê tung clip âm nhạc mới, từ hotgirl khoe đường cong cho tới anh chàng trẻ tuổi công khai làm lành với vợ… Thừa nhận đi, một ngày bạn đọc bao nhiêu tin tức kiểu này, theo dõi bao nhiêu người xa lạ kiểu này? Tình nguyện làm khán giả vô hình cho những thứ vô bổ, những người xa lạ ở tận đâu đâu như vậy, bạn sẽ mãi đóng vai quần chúng trong cuộc đời người khác. Cứ như vậy, cuộc đời bạn ai sẽ đóng thay đây hay nói đúng hơn, cuộc đời bạn ai sẽ sống thay?
(“Sống như ngày mai sẽ chết”, Phi Tuyết, NXB Thế giới, tr.10 – 11)
Xác định thao tác lập luận chính của văn bản.
Phương pháp: Vận dụng các kiến thức đã học về các thao tác lập luận.
Cách giải:
Thao tác lập luận chính: Bình luận.
Câu 2:
Phương pháp: Đọc, tìm ý.
Cách giải:
- Một sự thật đáng tiếc là: Thay vì làm đạo diễn điều khiển cuộc đời mình, dường như chúng ta lại thích thú hơn với việc làm khán giả cho bộ phim của người khác, từ người thân quen, người trong các mối quan hệ xã giao hay thậm chí là người hoàn toàn xa lạ.
Câu 3:
Phương pháp: Vận dụng kiến thức đã học về biện pháp tu từ.
Cách giải:
Gợi ý:
- Biện pháp so sánh: “Hãy gọi mỗi cuộc đời như vậy là một bộ phim - những bộ phim cuộc đời con người”
- Hiệu quả:
+ Câu văn giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm, thu hút người đọc.
+ Giúp cho ta hình dung cụ thể cuộc đời mỗi con người như một cuốn phim dài sẽ trải qua vô vàn cung bậc cảm xúc, biến cố khác nhau. Và vì cuộc đời là bộ phim nên ta phải làm đạo diễn cho cuộc đời mình.
Câu 4:
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
- Học sinh có thể rút ra một trong các thông điệp:
+ Hãy từ bỏ thói quen làm khán giả cho cuộc đời người khác .
+ Phải làm chủ cuộc đời mình.
+ Phải quan tâm và tạo nên một cuộc đời có ý nghĩa cho bản thân.
….
Câu 5:
Từ nội dung phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trả lời câu hỏi: Vì sao phải trở thành đạo diễn cho bộ phim cuộc đời của chính mình?
Phương pháp: Vận dụng kiến thức đã học về cách làm một đoạn nghị luận xã hội.
Cách giải:
1. Giới thiệu vấn đề:
- Giới thiệu vấn đề: Vì sao phải trở thành đạo diễn cho bộ phim cuộc đời của chính mình?
2. Giải quyết vấn đề
- Cần trở thành đọa diễn cho bộ phim cuộc đời của chính mình vì đó là trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với bản thân.
- Giúp làm chủ được cuộc đời- biết xác định mục tiêu, ước mơ, xây dựng kế hoạch hành động không lệ thuộc vào hoàn cảnh, số phận.
- Sống một cuộc đời có ý nghĩa, góp phần vào sự phát triển của xã hội.
- Bàn luận mở rộng: Phê phán những người không biết làm chủ cuộc đời, lãng phí thời gian làm khán giả cho cuộc đời người khác.
- Bài học nhận thức và hành động.
3. Tổng kết vấn đề.
Câu 6:
“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
(…) Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân, dòng sông xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bưc bội gì mỗi độ thu về.”
(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn lớp 12, Tập 1, NXB Giáo Dục Việt Nam, 2018)
Anh/Chị hãy cảm nhận về hình tượng dòng Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.
Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Yêu cầu nội dung:
I. Giới thiệu chung
- Nguyễn Tuân là một cây bút tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên bác, các tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
- Người lái đò Sông Đà được trích từ tập Tùy bút Sông Đà là kết quả của chuyến đi thực tế Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc. Tại đây, ông đã cảm nhận được thiên nhiên vừa dữ dội vừa trữ tình cùng với chất vàng mười trong tâm hồn người dân nơi đây.
- Khái quát vấn đề: Cảm nhận về hình tượng dòng sông Đà trong đoạn trích. Từ đó, nhận xét về nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
II. Phân tích
1. Phân tích đoạn trích - Hình tượng dòng sông Đà như một cá thể với 2 nét tính cách đối lập. * Hung bạo, dữ dội với cảnh đá bờ sông dựng vách thành
+ Đá bờ sông “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn Tuân ví như những thành trì kiên cố, kỳ vĩ, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực chờ.
+ Quãng sông còn hẹp đến nỗi như “một cái yết hầu” và “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”. Các liên tưởng tưởng tượng xen lẫn với nghệ thuật so sánh giúp người đọc hình dung một cách sống động độ cao của vách đá, độ hẹp của lòng sông, độ xiết của dòng chảy.
+ Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh” và có cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Với các hình ảnh miêu tả bằng cảm giác và trí tưởng tượng Nguyễn Tuân đã tái hiện một khung cảnh rợn ngợp, tắm tối, lạnh lẽo đến đáng sợ của thiên nhiên,
=> Khúc sông ở quãng này tiềm ẩn những nguy hiểm đối với con người.
* Sông Đà làm say đắm người đọc bởi vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng
- Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, không gian và thời gian khác nhau.
+ Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như áng tóc của người con gái Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo. Hình ảnh so sánh giầu tính biểu cảm, tạo ấn tượng sâu sắc về dòng sông mềm mại, kiều diễm, duyên dáng.
+ Màu nước sông Đà biến đổi theo từng mùa khác nhau, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ xinh đẹp, mơ mộng đang tuổi xuân tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần khó hiểu, thay đổi thất thường. => Sông Đà biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội lại vừa thơ mộng trữ tình. Qua đó ta cảm nhận được tình yêu , niềm tự hào tác giả dành cho thiên nhiên, cho quê hương, đất nước.
2. Nhận xét về nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
- Cảm nhận dòng sông dưới góc nhìn thẩm mĩ.
- Ngôn ngữ tài hoa uyên bác đa dạng, biến ảo thần kì với những phép tu từ vô cùng sinh động : so sánh , nhân hóa, cường điệu …
- Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau để miêu tả hình tượng dòng sông – văn chương, hội hoạ, điện ảnh, lịch sử, địa lý…
III. Kết luận
- Khái quát lại vấn đề.
- Giá trị nội dung, nghệ thuật.