(2024) Đề minh họa tham khảo BGD môn Văn có đáp án (Đề 9)
-
74 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
45 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản.
Phương thức biểu đạt: Biểu cảm, tự sự, miêu tả
Câu 2:
Văn ản đã đề cập đến sự kiện nào được tổ chức trên đào Trường Sa?
Văn bản đã đề cập đến sự kiện được tổ chức trên đảo Trường Sa: “Đêm nay khẩu đội chúng tôi tổ chức sinh nhật tuổi 19 cho Lương, cậu em út mới ra đảo được tròn ba tháng"
Câu 3:
Chỉ ra và phân tích hiệu quả của một biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn sau: Ánh trăng đêm hồn hậu khoan dung như lòng mẹ. Những chú dế nhảy ra từ những hốc cỏ đón trăng và vuốt râu ca hát.
- Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn: “Ánh trăng đêm hồn hậu khoan dung như lòng mẹ. Những chú dế nhảy ra từ những hốc cỏ đón trăng và vuốt râu ca hát"
+ Nhân hóa: “ánh trăng hồn hậu, khoan dung; những chú dế vuốt râu ca hát"
+ So sánh: “Ánh trăng đêm hồn hậu khoan dung như lòng mẹ"
- Tác dụng
+ Làm tăng sức gợi hình, gợi cảm, khiến lời văn thêm sinh động, hấp dẫn
+ Thể hiện khung cảnh thiên nhiên yên bình, thân thuộc trên đảo Trường Sa.
+ Thể hiện tinh yêu, sự gắn bó sâu sắc của tác giả với đảo Trường Sa và
cuộc sống nơi đây.
Câu 4:
Nhận xét về hình tượng người lính đảo được thể hiện trong văn bản.
- Hình tượng người lính được thể hiện trong văn bản:
+ Trẻ trung, yêu đời
+ Cuộc sống phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ
+ Đoàn kết, gắn bó, chia sẻ mọi buồn vui trong cuộc sống.
+ Yêu thiên nhiên, gắn bó với đảo như quê hương.
- Nhận xét:
+ Hình tượng đẹp, đáng khâm phục, tự hào.
+ Hình tượng được xây dựng chân thực, sống động.
Câu 5:
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của bản thân về sức mạnh của niềm tự hào dân tộc.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Sức mạnh của niềm tự hào dân tộc.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ vấn đề về sức mạnh của niềm tự hào dân tộc.
Có thể theo hướng:
- Tự hào dân tộc là thái độ ngưỡng mộ, trân trọng, sự tự tôn trước những vẻ đẹp trong bản sắc văn hoá dân tộc. Tự hào dân tộc là biểu hiện của tình yêu đất nước, ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước...
- Niềm tự hào dân tộc giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản sắc và đặc trưng của dân tộc mình, từ đó tạo nên sự đoàn kết và yêu thương giữa các thành viên trong cộng đồng.
- Niềm tự hào dân tộc còn là nguồn cảm hứng để chúng ta phấn đấu và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống. Nó khơi dậy lòng yêu nước và tình yêu cho đất nước, thúc đẩy chúng ta đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia.
- Tự hào dân tộc cũng là một phần quan trọng trong việc xây dựng hòa bình và sự đoàn kết toàn cầu...
Câu 6:
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Trong bài thơ “Tây Tiến”, nhà thơ Quang Dũng viết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lập đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên sóng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ội Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
(Theo Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr.88)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ trên. Từ đó, nhận xét về chất nhạc và chất họa trong thơ Quang Dũng
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Cảm nhận đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến”. Từ đó nhận xét về chất nhạc và chất họa trong thơ Quang Dũng.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lý lẽ và dẫn chứng; bảo đảm các yêu cầu sau:
* Giới thiệu khái quát tác giả Quang Dũng, bài thơ “Tây Tiến” và đoạn trích
* Cảm nhận về đoạn thơ
- Hai câu thơ dầu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
+ Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong bài thơ “Sông Mã”, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến.
+ Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả.
+ Đối tượng của nỗi nhớ đó là “nhớ về rừng núi”. Rừng núi là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả đã “xa rồi”. Xa rồi nên mới nhớ da diết như thế.
+ Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần như khắc sâu thêm nỗi lòng của nhà thơ. Đặc biệt tình cảm ấy được Quang Dũng thể hiện bằng ba từ “nhớ chơi vơi”, cùng với cách hiệp vẫn “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.
- Con đường Tây Tiến mở ra theo cả hai chiều thời gian và không gian: Theo lời thơ, một hành trình Tây Tiến gian khổ, nhọc nhằn, đầy thử thách với con người được mở ra. Theo chiều không gian: Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ. Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch Mai Châu... để đưa người đọc bước vào những địa hạt heo hút, hoang dại theo bước chân quân hành của người lính Tây Tiến.
- Ấn tượng đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ của người lính Tây Tiến là sương núi mịt mù:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+ Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ vùi lấp cả đường đi, vùi lấp cả đoàn quân trong mờ mịt. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi rã rời. Con người trở nên hết sức bé nhỏ giữa biên sương dày đặc mênh mông ấy.
+ Giữa mịt mù sương lạnh, người lính Tây Tiến vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và nên thơ. Vẫn là sương khói ấy thôi, nhưng cách nói “hoa về” và “đêm hơi” khiến sương không còn lạnh giá nữa mà gợi sự quần tụ, sum vầy, thật tình tứ và ấm áp.
- Ấn tượng tiếp theo được tác giả tập trung bút lực để khắc họa là núi cao vực sâu, là đèo dốc điệp trùng:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thăm
Heo hút còn naây súng ngửi trời
Ngân thước lên cao ngàn thước xuống
+ Những câu thơ chủ yêu dùng thanh trắc tạo nên những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, chạm nổi trước mắt người đọc cái hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên.
+ Nhịp ngắt 4/3 quen thuộc của thể thơ 7 chữ như bẻ gãy câu chữ để tạo độ cao dựng đứng giữa hai triền dốc núi. Nhịp ngắt đã trở thành giao điểm phân định rạch ròi hai hướng lên xuống của vô vàn con dốc tạo thành các cung đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến gợi ra những dãy núi xếp theo hình nam quạt trải dài trải dài khắp miền Tây Bắc. Người đọc hình dung ra hình ảnh dốc rồi lại dốc nối tiếp nhau, khúc khuỷu gập ghềnh đường lên, rồi lại thăm thẳm hun hút đường xuống.
+ Những từ láy giàu sức tạo hình “khúc khuỷu, thăm thăm, heo hút” được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Dốc “khúc khuỷu” quanh co, hiểm trở, gập ghềnh khó đi, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau. “Thăm thẳm” không chỉ do chiều cao mà còn gợi ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút tầm mắt người, không biết đâu là giới hạn cuối cùng. “Heo hút” gợi ra sự vắng vẻ, quạnh hiu của chốn rừng thiêng nước độc. Từ láy cũng mang đến cho người đọc cảm tưởng rằng người lính Tây Tiến đã vượt qua vô vàn những đèo dốc để chinh phục đỉnh núi cao nhất.
+ Dốc dựng đứng giữa trời, nên khi chinh phục được, người lính tưởng chừng như đang bồng bềnh đứng giữa biển mây, độ cao của bầu trời chỉ còn trong tâm mũi súng. Từ “ngửi” là cách nói tếu táo, tinh nghịch của lính tráng, dám trêu ghẹo cả tạo hóa. Nó không chỉ cho thấy sự lạc quan, yêu đời của lính Tây Tiến mà còn gợi ra tư thế khỏe khoắn của con người trước thiên nhiên. Người lính giữa thiên nhiên khắc nghiệt không hề bị chìm lấp đi mà nổi bật lên đầy thách thức.
– Câu thơ toàn thanh bằng êm nhẹ, bay bổng gợi tả cảm giác bâng khuâng, xao xuyến của người lính khi dừng chân trên lưng núi, phóng tầm mắt ra xa và bắt gặp hình ảnh những ngôi nhà bồng bềnh trong màn mưa rừng
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Ở đây, Quang Dũng đã rất tài hoa trong nghệ thuật phối hợp thanh điệu. Đang từ những thanh trắc liên tiếp trong 3 câu thơ trên, đột ngột một dòng thơ toàn thanh bằng đã cân bằng lại mạch thơ, tạo cảm giác nhẹ nhàng, thư thái như chưa từng có hành trình trèo đèo vượt dốc nào. Hình ảnh người lính trực tiếp xuất hiện:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
+ Hai câu thơ như một thước phim được cố ý quay chậm, phơi bày ra sự thật khắc nghiệt về những gian khổ, hy sinh của đời lính. Người chiến binh mệt mỏi vì đường xa, vì đói khát, bệnh tật... vẫn cố gắng tiến bước cho đến lúc buộc phải nằm lại trên dọc đường hành quân.
+ Hai chữ “dãi dầu” đã gói ghém trong đó biết bao những khó khăn gian khổ mà người lính Tấy Tiến đã trải qua trên những cung đường hành quân. Chữ “gục” đã khắc tạo hình ảnh người lính kiệt sức thật tội nghiệp. Những thanh ngã xuất hiện cách quãng đều đặn cũng góp phần tạo nên âm điệu ảo não trong câu thơ.
+ Nhà thơ không dùng cách gọi “đồng chí” phổ biến quen thuộc trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, mà là “anh bạn” - một từ giản dị ấy thôi nhưng gói ghém cả tình đồng chí, tình bạn bè và cả nghĩa ruột thịt sâu nặng.
+ Những cụm từ “không bước nữa gục lên súng mù bọ quên đời” đã tránh đi màu sắc tang thương, làm vơi đi nỗi nghẹn ngào xót xa đang trào dâng. Chính vì thế câu thơ nói về cái chết nhưng không có màu sắc bi lụy.
- Hình ảnh núi rừng tiếp tục được miêu tả đầy hiểm nguy
“Chiều chiều oai linh thác gắm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
+ Chiều chiều, tiếng thác nước gầm thét thị oai sức mạnh hoan sơ bản năng của núi rừng. Cái dữ dội của thiên nhiên được đẩy ca cực độ trong âm thanh gầm thét mạnh mẽ kia.
+ Đêm đêm, sự hiện diện của cọp dữ thấp thoáng đâu đây đe doạ tính mạng con người... Hai chữ “Mường Hịch” như một dấu nặng to rơi xuống dòng thơ, không chỉ còn là một địa danh cụ thể (nơi đặt sở chỉ huy của mặt trận Tây Tiến) mà trở nên đầy ám ảnh, gợi ra dấu chân lởn vởn của thú dữ trong vắng vẻ.
=> Cảnh núi rừng miền Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang DŨng hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ.
- Hai câu kết
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
+ Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, nghỉ ngơi ở một bản làng, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút, hương thơm lúa nếp ngày mùa và sự ân cần của những cô gái Mai Châu đã xua tan đi những mệt mỏi...
+ Câu thơ trên có ba thanh trắc xuất hiện cách quãng đều đặn như tạc hình những tia khói mảnh dẻ bay lên qua kẽ lá rừng, đồng thời đã đầy nỗi nhớ lên cung bậc da diết nhất – Câu thơ cuối lại toàn thanh bằng tạo nên một - cảm giác êm dịu, ấm áp đến vô cùng. Như vậy, ấn tượng đọng lại cuối cùng trong kí ức của người lính Tây Tiến sau những chặng đường hành quân không phải là sự dữ dội, hiểm nguy mà là hương vị và tình người nồng ấm của mảnh đất miền Tây
* Về nghệ thuật:
- Thể thơ 7 chữ, giọng điệu phù hợp với những trạng thái cảm xúc
- Ngôn ngữ sáng tạo với nhiều kết hợp từ mới lạ
- Hình ảnh giàu sức gợi
- Sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ: nhân hóa, điệp, đối...
* Đánh giá
- Sức hấp dẫn chủ yếu của đoạn thơ là vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, hoang sơ của
rừng núi miền Tây Bắc trải dài theo chặng dường hành quân của người lính Tây Tiến, được phác thảo bằng bút pháp lãng mạn qua những cực tả và thủ pháp đối lập.
- Nỗi nhớ chính là cảm xúc bao trùm cả đoạn thơ, khi thì khắc khoải với những kỉ niệm, lúc lại ẩn hiện trong những địa danh lúc lặp đi lặp lại bằng ngôn từ diễn tả trực tiếp.
* Nhận xét về chất nhạc và chất họa trong thơ Quang Dũng:
- Chất liệu của hội họa là dường nét, màu sắc, hình khối... Chất liệu của âm
nhạc là âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu. Trong bài thơ, chất nhạc và chất họa thể hiện ở việc nhà thơ dùng màu sắc, đường nét, âm thanh làm phương tiện
diễn đạt tình cảm của mình.
- “Tây Tiến” có sự kết hợp hài hòa giữa nhạc và họa:
+ Đoạn thơ sử dụng những từ ngữ tạo hình, kết hợp với nghệ thuật tương phản và và những nét vẽ gân guốc, khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời, ngàn thước lên ngàn thước xuống,... đã vẽ được một bức tranh núi rừng Tây Bắc hiểm trở, dữ dội. Xen vào những nét vẽ gân guốc giàu tính tạo hình là những nét vẽ mềm mại, gam màu lạnh xoa dịu cả khổ thơ. Câu thơ sử dụng toàn thành bằng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
+ Chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt, những thanh trắc tạo cảm giác trúc trắc, khó đọc kết hợp với những thanh bằng làm nhịp thơ trầm xuống tạo cảm giác thư thái, nhẹ nhàng.
- Chất nhạc và chất họa đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn riêng cho bài thơ đồng thời khẳng định tài năng, phong cách độc đáo của Quang Dũng.