(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Hoằng Hóa 3 có đáp án
(2024) Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Văn trường THPT Hoằng Hóa 3 có đáp án
-
229 lượt thi
-
6 câu hỏi
-
45 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 2:
Người cha muốn nói điều gì với con qua những câu thơ sau:
Không có gì tự đến đâu con
Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa
Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa
Mùa bội thu phải một nắng hai sương.
Qua đoạn thơ, người cha muốn nói với con:
- Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người, không có điều gì đến một cách tự nhiên.
- Để có được những điều tốt đẹp hay thành công trong cuộc đời của mỗi người là điều không hề dễ dàng. Muốn thành công trong cuộc đời, con người cần chăm chỉ, kiên trì học hỏi, tích lũy tri thức, rèn luyện bản thân, cần có ý chí, nghị lực vượt qua những khó khăn thử thách (qua hình ảnh so sánh, ẩn dụ ở câu 2,3,4 )Câu 3:
Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu thơ: Đường con đi dài rộng biết bao nhiêu…
Đường con đi dài rộng biết bao nhiêu…
- Biện pháp tu từ trong câu thơ: Ẩn dụ
- Tác dụng:
+ “Đường con đi” – con đường đời, con đường tương lai của con là một hành trình dài và rộng mở.
+ Biện pháp ẩn dụ làm cho câu thơ giàu hình ảnh, sinh động.Câu 4:
Nội dung hai dòng thơ sau có ý nghĩa như thế nào đối với anh/chị?
Trời cao đó nhưng chẳng bao giờ lặng,
Chỉ có con mới nâng nổi chính mình.
- Cuộc đời của mỗi con người là một hành trình dài. Trên hành trình đó, con người sẽ không tránh khỏi những khó khăn, thử thách.
- Mỗi người tự làm chủ cuộc đời mình. Thành công hay thất bại đều do mình quyết định nên mỗi người cần chủ động chuẩn bị cho mình những điều kiện tốt nhất khi có thể để đạt được thành công trong cuộc sống.Câu 5:
II. LÀM VĂN
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của việc làm chủ cuộc sống của mình.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo một cách hoặc kết hợp các cách: diễn dịch, quy nạp, tổng-phân-hợp, song hành hoặc móc xích, đảm bảo yêu cầu về cấu trúc đoạn văn.c. Triển khai vấn đề nghị luận:
Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự cần thiết của việc làm chủ cuộc sống của mình, đảm bảo hợp lí, thuyết phục phù hợp với chuẩn mực, đạo đức và pháp luật. Có thể triển khai theo hướng sau:
- Giải thích: Làm chủ cuộc sống của mình là tự mình chủ động quyết định cuộc sống của mình, không bị chi phối bởi người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài.
- Bàn luận:
+ Người biết làm chủ cuộc sống của mình là người luôn làm chủ tình thế, dám nghĩ, dám hành động. Bất cứ ai cũng cần làm chủ cuộc sống của mình.
+ Biết làm chủ cuộc sống của mình làm cho con người tự tin, bản lĩnh, linh hoạt ứng xử trong mọi tình huống để vượt qua khó khăn, hoàn thành mục tiêu, khát vọng, ước mơ.
+ Để làm chủ được cuộc sống của mình, mỗi người cần luôn học hỏi, trau dồi tri thức, rèn luyện kĩ năng để luôn tự tin và thành công trong cuộc sống.
+ Phê phán những bạn trẻ sống dựa dẫm, ỷ lại, thiếu tự tin, thụ động.
(HS cần nêu dẫn chứng)
- Rút ra bài học:
+ Biết làm chủ cuộc sống của mình là một thái độ sống tích cực của con người trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
+ Thế hệ trẻ cần phải biết làm chủ cuộc sống của mình để thành công, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.Câu 6:
II. LÀM VĂN
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Lúc ấy, A Sử vừa ở đâu về, lại đang sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm, nó còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì.
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
(Trích Vợ chồng A Phủ-Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam,2020, tr 7-8)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nét đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Tô Hoài.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn trích văn xuôi.
Mở bài giới thiệu được khái quát vấn đề nghị luận, thân bài thực hiện được các yêu cầu của đề bài, kết bài khẳng định được vấn đề.
c. Triển khai được vấn đề nghị luận:
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, vận dụng kết hợp các thao tác lập luận, phối hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng, đảm bảo các yêu cầu sau:· Phân tích vấn đề
* Cảm nhận về hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích
Hoàn cảnh: Tiếng sáo trong không khí mùa xuân đang về cùng men rượu ngày tết đã góp phần làm thay đổi tâm trạng và hành động của Mị.
Đoạn trích khắc họa diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài:
- Mị nhớ lại quá khứ và nghĩ về hiện tại với cảm xúc trái ngược.
+ Nhớ về quá khứ có tự do, được đi chơi ngày tết, Mị vui sướng trở lại.
+ Ý thức thực tại không có hạnh phúc, không có tự do. Mị đau khổ, phản kháng quyết liệt, nghĩ tới cái chết.
- Hàng loạt hành động có ý nghĩa:
+ “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Ánh sáng của ngọn đèn trong căn buồng Mị là ánh sáng của sự sống. Nó được chắt chiu trong cái khắc nghiệt của hoàn cảnh. Mị đã lấy ánh sáng trong lòng mình để thắp sáng cuộc đời.
+ “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.” sức sống được miêu tả qua sự trở về của nữ tính. Khát vọng về hạnh phúc, về tự do trỗi dậy trong Mị.
- Sức sống của Mị hiện hữu ngay cả khi Mị bị A Sử trói vào cột:
+ Hành động tàn bạo của A Sử chặn đứng khao khát của Mị, càng tô đậm hơn nỗi cơ cực, cay đắng, tủi nhục của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra.
+ Âm thanh tiếng sáo thôi thúc Mị khao khát hướng tới tự do, hạnh phúc
+ Tiếng chân ngựa đạp vách khiến Mị ý thức thực tại bị chà đạp, mất tự do.
-> Đoạn trích góp phần khắc hoạ thành công hình tượng nhân vật Mị, thể hiện giá trị hiện thực và tư tưởng nhân văn sâu sắc.* Nhận xét về nét đặc sắc nghệ thuật của ngòi bút Tô Hoài
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật:
+ Diễn tả tinh tế, chân thực những biểu hiện tâm lí phức tạp, đầy mâu thuẫn, góp phần tác động đến hành động của nhân vật.
+ Ngòi bút của Tô Hoài cũng có khả năng cá tính hóa nhân vật.
- Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Truyện được kể chủ yếu ở ngôi thứ ba, từ điểm nhìn của những người ở Hồng Ngài. Nhịp kể chậm, giọng kể trầm lắng chứa đầy cảm thông, xót xa. Giọng trần thuật nhiều khi đã hòa vào tiếng nói bên trong nhân vật.
- Sáng tạo các chi tiết đặc sắc.